Tình c ảm của người nông dân trong quan hệ làng xóm, đất nước, con người

Một phần của tài liệu đặc điểm nhân vật trữ tình trong ca dao cổ truyền việt nam (Trang 95 - 98)

CA V Ề CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI

4.2. TH Ế GIỚI TÌNH CẢM CỦA NHÂN VẬT NGƯỜI NÔNG DÂN

4.2.2. Tình c ảm của người nông dân trong quan hệ làng xóm, đất nước, con người

Văn hóa Việt Nam truyền thống là văn hóa làng. Mặc dù không có trong cơ cấu hành chính (làng không phải là đơn vị hành chính) nhưng làng có vị trí vô cùng quan trọng đối với đời sống người nông dân về mọi phương diện. Làng hội tụ cả ba nguyên lý cùng của văn hóa - xã hội đối với con người:

- Nguyên lý cùng - dòng dõi - Nguyên lý cùng - nơi cư trú - Nguyên lý cùng - lợi ích

Các hợp thể của làng - cánh đồng, cổng làng, cây đa, bến nước, đường làng, đình làng, việc làng, công việc, gia đình, dòng họ, hương ước - đã thể hiện hồn quê, hồn người, thở thành chất keo vừa vô hình, vừa hữu hình theo suốt cuộc đời dân quê.

Người nông dân tự hào về làng mình:

- Làng tôi có lũy tre xanh Có cây tắm mát chảy quanh xóm làng

Trên bờ vải nhãn hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng

- Làng ta phong cảnh hữu tình Dân cư đông đúc như hình con long

Ca dao vang lên bao nhiêu tên làng, tên đất, những địa danh " âm vang tên đất (Xuân Diệu). Có tên chữ, tên dân gian. Mỗi người đều tự hào về làng của mình. Cảnh vật làng quê hiện lên trong ca dao với những đường nét thân quen. Vì vậy mà trong ca dao có những khung kết cấu, hình ảnh có sấn, người dân ở các địa phương khác nhau chi cần "điền" thêm tên của vùng quê mình vào đó. Ví dụ:

- Nước giếng ………vừa trong vừa mát Đường………lắm cát dễ đi

- Hỡi cô thắt lưng bao xanh Cô về………với anh thì về ……… có ruộng tứ bề Có sông tắm mát, có nghề trồng dâu

-Ba phen quạ nói với diều

……… có nhiều cá tôm

Ở bài đầu, nguôi ta có thể "điền" vào đó những tên làng như Ngọc Hà, Trịnh Thôn, v.v... ở bài hai có thể "điền" những An Phú, Tổng Mễ, v,v... Ở bài ba có thể

"điền" "ngã ba bến Rớ", "cù lao Ông Chưởng", "đến sông Ông Đốc", v.v...

Rộng hơn làng là vùng, miền, xứ. Người nông dân thường giới thiệu, khoe cái đặc sắc của phong cảnh, sản vật, con người quê hương mình. Ở những bài ca đao này, ta thường gặp các công thức truyền thống, như công thức địa danh - phong cảnh, địa danh - sản vật, địa danh - con người, công thức xếp hạng, bình giá cảnh vật (Thứ nhấtThứ nhì Đâu bằng ..., Đâu hơn), những lời nhắn nhủ, mời gọi (Ai vô, Ai lên, Có lên ...):

- Thứ nhất là núi Ba Vì Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn

- Sâu nhất là sông Bạch Đằng Ba lần giặc đến ba lần giặc tan

Cao nhất là núi Lam Sơn Có Ông Lê Lợi trong ngàn bước ra

- Đường vô xứ Huế quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh hoa đồ

Có vô xứ Huế thì vô -Hết gạo thì có Đồng Nai Hết củi thì có Tần Sài chở vô

- Ở đâu băng xứ Lung Tràm

Chìm kêu như hát bội cá lội vàng tợ mắm nêm

Còn có thể kể những công thức truyền thống khác của nhóm bài ca này. Chẳng hạn, nói đến phong cảnh là nói đến sông núi, con đường, với những nhóm chữ có sấn

"như tranh hoa đồ", "nước ngọt gió hiền", "Đã đi đến đó thì không muốn về", "Trai đi có vợ, gái về có con". Đề cập tới sản vật là đề cập đến thóc gạo, tôm cá, khoai ngọt sắn bùi, dâu tằm, mật mía, v.v... Đằng sau những công thức truyền thống, những lời ca như thế là lòng tự hào về quê hương xứ xở, là tình quê, tình người lan tỏa nhẹ nhàng mà rất sâu lắng.

Đối với người nông dân làng và nước luôn gắn bó với nhau. Nước là sự mở rộng của nhiều làng. Ngôn ngữ Việt Nam có cụm từ làng nước, một cụm từ biểu hiện sinh động mối quan hệ thiêng liêng đó.

Do điều kiện sống, sản xuất, người nông dân chủ yếu sống ỏ làng, với làng. Song điều đó không có nghĩa rằng tình cảm của họ chi bó hẹp trong khuôn khổ lũy tre, cổng làng. Tình yêu quê hương đất nước đã vang lên trong nhiều câu hát của người nông dân, người Việt Nam.

Đó là lời nhắn nhủ về tình nghĩa đồng bào:

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn Đó là lời thề với nước non, thiêng liêng và kiên định:

Nước non là nước non trời Ai phân được nước ai dời được non

Đó là lời nói với kẻ thù đồng thời cũng là lời nói hứa với non sông:

Bao giờ hết cỏ Tháp Mười Thì dân Nam mới hết người đánh Tây

Đọc ca dao ta hiểu vì sao một đất nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, hơn 90%

dân số là nông dân, vậy mà không quân xâm lược nào có thể khuất phục.

Sức mạnh lớn nhất của con người Việt Nam kẻ thù không đánh giá hết được nó chính là lòng yêu nước.

Một phần của tài liệu đặc điểm nhân vật trữ tình trong ca dao cổ truyền việt nam (Trang 95 - 98)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(156 trang)