Sự bất công và đau khổ lớn nhất của người phụ nữ trong xã hội xưa là bị gạt ra khỏi cuộc sống thênh thang của xã hội, bị trói buộc trong khuôn khổ chật hẹp của cuộc sống gia đình. Đến tuổi lấy chồng họ hoàn toàn bị mất quyền tự do hôn nhân và trở thành một món hàng đổi trao, gả bán, cả cuộc đời lệ thuộc đạo "Tam tòng". Chính vì vậy, người vợ trong bài ca về tình cảm gia đình đã bày tỏ biết bao nhiêu nỗi niềm, tâm sự ngổn ngang vì bị ép gả cho một ông chồng không ra gì, bị chôn vùi cả tuổi thanh xuân, trở thành công cụ sở hữu trong tay kẻ vũ phu, tệ bạc. Nổi lên trong các bài ca mang nội dung này là hình ảnh đối lập của người phụ nữ giữa ngày còn tự đo sung sướng ở với cha mẹ, với hiện tại phải chịu đựng bị chồng ngược đãi:
-Xưa tôi ở cùng mẹ cha Mẹ cha yêu dấu như hoa trên cành
Bây giờ tôi về cùng anh Anh tham nhan sắc, anh tình phụ tôi.
-Từ ngày tôi ở với anh
Anh đánh, anh chửi, anh tình phụ tôi Có thịt, anh tình phụ xôi Có cam phụ quýt, có người phụ ta.
-Tưởng rằng một dạ một lòng Ngờ đâu đem dạ bưởi bòng phụ nhau.
-Ngày xưa anh bủng anh beo
Tay tôi sắc chén thuốc, tay tôi đèo múi chanh
Từ ngày anh khỏe anh lành Anh mê nhan sắc, anh tình phụ tôi.
Những người vợ bất hạnh ấy thực tế không muốn nói ra điều bất hạnh. Bởi vì
"Nói ra mang tiếng phũ phàng" "Nói ra sợ chúng bạn cười", "Nói ra sợ chị em cười",
"Nói ra xấu thiếp hổ chàng". Nhưng khi họ phải "nói ra" là bởi "Nín đi thì não can tràng biết bao".
Bài ca về sinh hoạt gia đình cũng thường dùng hình thức đối lập giữa chồng người, chồng ta để nêu bật bi kịch của người phụ nữ. ở đây sự đối lập giữa chồng người, chồng ta không phải là sự đối lập về vật chất trong địa vị xã hội mà sự đối lập về "thể thống" về đạo đức, về trách nhiệm làm chồng:
Chồng người đi ngược về xuôi Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.
Chồng người vác giáo săn beo Chồng em vác đũa săn mèo khắp mâm.
Chồng người năng văn năng võ Chồng tôi chi chủ miếng ăn Đong ít thì nổ cằn nhằn Bỏ thêm nắm nữa nó nhăn răng cười.
Ở bài ca dao trên, người vợ lấy phải chồng không ra gì tự xưng mình là "tôi", đây là đại từ người phụ nữ rất ít khi sử dụng trong thực tế cũng như trong ca dao.
Trong ca dao khi họ đã nói "tôi" là lúc họ không thể khiêm nhường được nữa, không nín nhịn được nữa. Đại từ "tôi" trong bài ca trên góp thêm phần biểu hiện sự tinh táo, sự cay đắng của nhân vật người vợ về thân phận và những nỗi niềm đau khổ tột cùng của người phụ nữ . Có điều những bài ca mang nỗi niềm ấy chính là những lời độc thoại, tự sự trữ tình với chính mình để vơi bớt đau khổ để tìm sự chia sẻ, đồng cẩm của những người đồng cảnh ngộ và có khi là chi để cho mình thương mình hơn mà thôi.
Quan niệm nghiệt ngã của xã hội phong kiến "Trai năm thê bảy thiếp" "Gái chính duyên chi có một chồng" và chế độ gia đình - gia trưởng thông qua một người
đàn ông làm chủ gia đình đã trói buộc hai, ba, thậm chí năm, bảy người đàn bà trong những mối mâu thuẫn, bất hòa, đau khổ thường trực, nhiều khi chi bắt đầu từ những nguyên cớ vụn vặt. Trong chế độ đa thế ấy, đạo luật của xã hội lại càng ráo riết
phân hóa nhữhg người vợ cùng chung một chồng và cũng chính là cùng chung một cảnh ngộ éo le, để đẩy họ dấn sâu hơn vào bi kịch.
Hôn nhân trong xã hội phong kiến nhằm mục đích là để duy trì gia tộc, việc hôn nhân là việc của chung gia tộc chứ không phải việc riêng của con cái. Bởi vậy dựng vợ gả chồng là quyền của ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ có quyền đặt đâu con ngồi đấy, thậm chí con cái khi còn trong bụng mẹ đã bị cha mẹ ước hôn rồi (gọi là "chi phúc hôn";. Bao nhiêu cảnh dở khóc dở cười diễn ra :
- Bông bồng cõng chồng đi chơi Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng.
-Vô duyên lấy phải chồng già Kêu chồng thì lỡ, kêu cha bạn cười.
-Vô duyên lấy phải chồng già Ra đường bạn hỏi rằng cha hay chồng ?
-Ngày ngày vác cối giã trầu Tay thời rót nước, tay hầu cái tăm
Đêm đêm đưa lão đi nằm Thiếp đặt lão xuống lão nằm trơ trơ.
Trong bài ca tình cảm gia đình, ta thường nghe rền rĩ lời sầu não, tiếng thở dài than thân, trách phận của người phụ nữ bị ràng buộc trong kiếp sống vợ chồng không ra gì:
-Dửng dưng như cá vào lờ Khi vào thì dễ, bây giờ khó ra
Tiếc thay hoa hỡi là hoa Mùa xuân chẳng nở, nở ra mùa hè!
Tiếc thay hoa nở làm chi Hoa nở lỡ thì, lại phải mùa đông?
Chồng lớn vợ bé đã xong Chồng bé, vợ lớn trong lòng đắng cay
- Chồng lên tám, vợ mười ba Ngồi mà nu nống, nu na đỡ buồn
Mười tám vợ đã lớn khôn Nu na nu nống chồng còn mười ba Để
- "Cũng mang lấy tiếng sớm chồng Mười đêm ấp những giường không cả mười"
Trong những hoàn cảnh ấy, sự đối lập quyết liệt giữa ý thức về phẩm giá của chính mình với hình ảnh chồng tệ bạc, đần độn càng làm cho người phụ nữ thêm bức bối và đau đớn.
Chồng em nó chẳng ra gì Tổ tôm xóc đĩa nó thì chơi hoang
Nói ra xấu thiếp hổ chàng
Nó giận, nó phá tan hoang cửa nhà ...
Đắng cay ngậm quả bồ hòn Cửa nhà gia thế, chồng con kém người
Em nói ra đây sợ chúng chị em cười Con nhà gia thế lấy phải chồng đần ngu
Rồng vàng tắm nước ao tù Người khôn ở với người ngu nặng mình.
Qua ca dao, chúng ta thấy hình ảnh người phụ nữ, đã đi lấy chồng thường được biểu hiện bằng cách hình ảnh truyền thống như : "cá trong lờ", "chim mắc lưới", "hoa lỡ thì", "ruộng mãi", "bát cơm chót chan canh", "rồng vàng tắm nước ao tù", "lúa đã đổ vào kho", "ngựa đã có cương", "gông đeo cổ".v.v... Người vợ lấy phải chồng không ra gì cảm thây mình "vô duyên", "đắng cay như ngậm quả bồ hòn".
Trong xã hội phong kiến, sự phản kháng của người phụ nữ về thân phận "bèo dạt mây trôi", kiếp sống thân "tầm gửi", "như tấm lụa đào - phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"... là cuộc chiến đấu lẻ loi, đơn độc, thụ động. Văn học viết cũng đã xây dựhg hàng loạt môtip người phụ nữ phản kháng bằng cách than thân trách phận, như người cung nữ trong "Cung oán ngâm khúc", nàng Quỳnh Như trong "Sơ kính tân trang" v.v...
Những tiếng thơ ấy, những hình ảnh ấy có ý nghĩa dân chủ và phản kháng xã hội rất lớn.
3.2.2.2. Nỗi ngang trái bất hạnh trong cảnh làm lẽ:
Luật lệ phong kiến quy định nếu người vợ không sinh con hoặc chi sinh con gái thì người chồng được quyền cưới vợ lẽ, thậm chí người vợ phải đi cưới thiếp cho chồng chứ không đợi chồng phải lên tiếng đòi. Cuộc sống của người vợ lẽ thực chất chi là đày tớ không công. Luật Gia Long, điều 96 ghi "Thê giả tề dã dữ phu tề chi nhân dã" qui định: vợ cả gọi là "Thê", là "chính thất", chồng là "phu" (nhà tôi), trên giấy tờ vợ cả được ngang hàng với chồng. Còn vợ lẽ gọi là "thiếp" là "thứ thất", chữ luật gọi là "trắc" (người ăn cạnh nằm kề), "lẽ" là lẻ loi, gọi chồng là "gia trưởng" (ông tôi) [ 91 ] Và khi có con thì con cái vợ lẽ phải coi vợ cả là mẹ chính của mình, nếu mẹ
ruột mình có chết trước mẹ chính thì không được để đại tang. Thực tế người vợ lẽ chi là người đàn bà mà người chồng hay vợ cả mua về để sinh con đẻ cái lưu truyền nòi giống và bị sai làm đầy tớ, cho nên có thể bị đuổi đi, bị gả bán hoặc đem cho người khác bất cứ lúc nào. Có biết bao nhiêu cảnh đời dở khóc dở mếu, chôn vùi tất cả tình yêu, khát vọng, tuổi trẻ, nhan sắc của người phụ nữ được ca dao xây dựng thành một loại hình ảnh nhân vật "người vợ lẽ" :
Lấy chồng làm lẽ khổ thay Đi cấy đi cày chị chẳng kể công
Đến tối chị giữ lấy chồng
Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài Đêm đêm gọi những "Bớ Hai"
Trở dậy nấu cám, thái khoai, băm bèo.
Cuộc sống có "chồng chung" đem đến bao khổ sở cho người phụ nữ. Quyền hành và sự ghen tuông của vợ cả khiến cho người vợ lẽ càng cực nhọc trong cảnh làm tôi tớ:
Mang dao mang kéo ra đây Rạch mặt con này lột lấy xông thâm
Nhà mày có bùa tri âm Thì tao chịu cố chịu cầm chồng tao
Lên trời bắt được ông sao Thì tao chịu mất chồng tao cho mày
Người vợ lẽ tưởng mình cũng có phần để mơ ước cho một cuộc sống vợ chồng êm ả, nhưng cứ một chút tia sáng hy vọng lóe lên thì bóng đêm lại bao trùm tất cả, tâm sự của họ ngổn ngang trăm mối, vừa chua chát căm giận, vừa thấp thỏm đợi chờ, cái nọ đè lên cái kia, cái kia lồng vào cái nọ. Cứ như vậy suốt đêm dài, người vợ lẽ một mình xót thương cho số phận bạc bẽo của mình.
Canh ba sương nhuộm cành mai
Bóng trăng em ngỡ bóng ai mơ màng Canh tư xích cửa then vàng Một mình vò võ đêm trăng xế lần
Canh năm mê mẩn tâm thần Đêm tàn trăng lụi, rạng đông lên rồi.
Cứ như vậy ngày tháng trôi qua, tuổi xuân đi rồi không trở lại, hạnh phúc ái ân làm sao còn được đền bù? Ta chíbig kiến một tâm trạng thấp thỏm đợi chờ và luôn luôn thất vọng, bế tắc. Bi kịch của cảnh làm vợ lẽ được diễn tả sâu sắc hơn trong nhiều bài ca đối lập giữa thực tại khắc nghiệt phũ phàng với mơ ước nhỏ nhoi, khiêm tốn nhưng xiết bao tình người:
Thân em làm lẽ chằng hề
Có như chính thất mà lê giữa giường Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò Mong chồng, chồng chẳng xuống cho Đến khi chồng xuống gà đao o o gáy dồn Chém cha con gà kìa, sao mày vội gáy dồn?
Mày làm cho tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con.
Tâm trạng trên đây thật ra cũng đã đi quá mức chịu đựng của người trong cảnh rồi. Nhưng người phụ nữ trong tình cảnh này không chi biết có chịu đựng, trông chờ.
Trong văn học dân gian Việt Nam, tiếng nói đấu tranh của người phụ nữ đã từng sản sinh ra những tác phẩm có nội dung xã hội sâu sắc. Có nhiều bài ca đã phản ánh sự phản ứng mạnh mẽ trong ý nghĩ, trong thái độ dứt khoát đấu tranh để thoát ra khỏi những ràng buộc khổ đau của thân phận làm lẽ:
-Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.
-Chồng con là cái nợ nần Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm.
Hoặc:
Chớ tham ngồi mũi thuyền rồng Tuy rằng tốt đẹp nhưng chồng người ta
Chớ tham vóc lĩnh chiếu hoa Lấy chồng làm lẽ người ta giày vò.
Ở những bài ca trên, người phụ nữ đã thể hiện rõ thái độ tự tin và nhận thức sâu sắc những nỗi ngang trái của cuộc đời làm vợ lẽ, những tính chất vô lý của sự bất bình đẳng trong quan hệ vợ chồng. Trong ca dao, bài ca trữ tình, nhiều câu hát đấu tranh của người phụ nữ đã trở thành những câu hát cửa miệng trong đông đảo quần chúng nhân dân.
3.2.2.3. Nỗi bất hạnh của người vợ trong quan hệ mẹ chồng - nàng dâu:
Đây không phải là một đề tài phổ biến trong ca dao trữ tình, nhưng mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu là một hiện tượng xã hội đặc biệt mà từ xưa đến nay mối quan hệ này thường được đưa ra bàn luận mà cái đích cuối cùng là làm sao cho "trong ấm ngoài êm", cho đời sống tình cảm của người phụ nữ yêu thương nhiều hơn và vơi đi nước mắt đau buồn.
Trong dân gian, người ta vẫn lưu truyền một quan niệm:
Mẹ chồng, nàng dâu
Chúa nhà, người ở khen nhau bao giờ Hoặc:
Thương chồng phải khóc mụ gia Ngẫm tôi với mụ có bà con chi
Và có những bài ca người vợ oán than, than thở bởi sự nghiệt ngã, khắt khe trong cư xử của mẹ chồng đối với nàng dâu:
-Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi Biết rằng có được ở đời với nhau ?
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp cho đau lòng chàng.
-Mẹ anh năm lọc bảy lừa Mua cam phải quýt, mua dưa phải bầu
Mua kim mua phải lưỡi câu Mua mật phải dầu, cực lắm anh ơi Hoặc là:
Trách cha trách mẹ nhà chàng Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
Thật vàng chẳng phải thau đâu Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng.
Nỗi khổ đau của những người vợ sống trong cảnh bị mẹ chồng bắt ne bắt nét, bắt khoan bắt nhặt, sống sao cũng không hài lòng mẹ chồng khiến cho người phụ nữ thấy cuộc đời mình càng cơ cực, có những bài ca mà tiếng khóc nghẹn ngào của người con dâu không sao kềm nén được, bởi cảnh:
Bố mẹ chồng ác nghiệt Ngày đánh mắng mấy lần
Mỗi lần mắng cả cha Mỗi lần nhiếc cả mẹ Họ hàng cũng chẳng tha
Và càng bi đát hơn khi người phụ nữ đó rơi vào cảnh góa bụa, còn xuân xanh mà phải vừa hầu hạ mẹ chồng vừa phải gánh vác cả " giang sơn" nhà chồng, lại phải thủ tiết thờ chồng, họ tiếc cho thời tuổi trẻ của mình và ý muốn đổi đời trỗi dậy
Lênh đênh chiếc bách giữa dòng
Thương thân góa bụa, phòng không lỡ thì Gió đưa cây trúc ngã quì
Ba năm chực tiết, còn gì là xuân
Những bài ca giãi bày tâm sự như trên của những người vợ góp phần miêu tả đầy đủ hơn thực tế bất hạnh, ngang trái mà người phụ nữ nông dân xưa kia phải chịu đựng.