Trường ca - Từ triết luận cao cả đến suy ngẫm riêng tư

Một phần của tài liệu cái tôi trữ tình trong thơ trẻ việt nam 1965 1975 (Trang 131 - 142)

Chương 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ 1965 -

3.1. Trường ca và thơ tự do

3.1.1. Trường ca - Từ triết luận cao cả đến suy ngẫm riêng tư

Quá trình hình thành và phát triển của trường ca với tư cách là một thể loại khá phức tạp. Đến những năm 60, trên cơ sở xuất hiện một khối lượng lớn trường ca, mới có điều kiện khu biệt đặc trưng của thể loại này so với thơ dài. Thực tế lịch sử văn học chứng minh trường ca đã khẳng định được vị trí trong sự vận động thể loại và đã có chỗ đứng trong đời sống thơ Việt Nam hiện đại, đặc biệt là thơ thời kháng chiến chống Mỹ. “Do yêu cầu phải bộc lộ cái tôi nhà thơ, do nhịp điệu phát triển khẩn trương náo nức, do giọng thơ cần thay đổi nhiều màu sắc, do yêu cầu tiếp cận hiện thực và âm hưởng hùng tráng… cho nên trường ca thích hợp với các cây bút trẻ” [87, tr.365]. Ở trường ca, nhà thơ xuất hiện với tư cách là cái tôi dấn thân và hành động, cái tôi phải sống với những sự kiện của tác phẩm. Điều này minh chứng sự cần thiết của trường ca trong nhu cầu mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực của thơ trẻ; là môi trường để thế hệ thơ trẻ thể hiện tập trung cao độ tư duy nghệ thuật.

Hơn nữa, với những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ, trước hết trường ca đáp ứng được yêu cầu của khả năng tăng cường chất chính luận trong thơ.

“Trường ca là kết quả sự mở rộng dung lượng phản ánh và quy mô cảm xúc của thơ trữ tình, là một hình thức biểu hiện tình cảm lớn của con người trước hiện thực Cách mạng của dân tộc, của thời đại” [183, tr.166]. Với đặc điểm đó, trường ca là mảnh đất hoàn toàn đủ sức để thơ trẻ thể hiện cái tôi khát vọng, cái tôi mang cảm quan sử thi với ngọn nguồn cảm hứng ắp đầy tự hào, ngưỡng vọng. “Con đường đi đến trường ca là con đường đi từ những bài thơ nhỏ đến bước tổng hợp, khái quát của tư duy trữ tình, trong đó phương thức tự sự kết hợp với tính trữ tình” [4, tr.152].

Với khả năng kết hợp nhuần nhuyễn cả hai phương thức trữ tình và tự sự, đồng thời, bằng năng lực phản ánh hiện thực rộng lớn, trường ca thể hiện bao quát cảm thức thời đại của thơ trẻ 1965 - 1975, làm sống dậy không khí của cả một thời đại “cả nước lên đường”. Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Vách đá Hồ Chí

Minh, Chim vàng chốt lửa, Quê hương mặt trời vàng (Thu Bồn); Trường ca hòa bình, Ngụ ngôn của người đãng trí (Ngô Kha)… là những bản trường ca tiêu biểu của thơ trẻ 1965 - 1975, là sự kì công của người nghệ sĩ nhằm tái dựng âm hưởng của một thời đại hào hùng; là quan niệm sống của cả một thế hệ, là sinh mệnh nhân dân gắn liền với vận mệnh dân tộc, là tình yêu. Đó còn là triết luận về vấn đề sống còn của dân tộc, sự giằng xé của những hồn thơ ngỡ đã tuyệt vọng, là khao khát kiếm tìm hạnh phúc cho quê hương và thậm chí đó còn là những cơn mộng mị của người đãng trí quay quắt trong những giấc chiêm bao hư - thực để lí giải về chiến tranh, về thân phận con người. Điểm nhìn của chủ thể trong trường ca ở giai đoạn này đã có những bước chuyển đổi. Không chỉ là cái nhìn khái quát về quá khứ, không chỉ khuôn vào cái nhìn hoành tráng, cổ vũ, ngợi ca mà trường ca ở thơ trẻ thời chống Mỹ còn được mở rộng trên nhiều bình diện. Chính đặc điểm này giúp các tác giả trường ca làm đa diện hơn những dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình - từ triết luận cao cả đến suy ngẫm riêng tư.

Trong cảm hứng sử thi, hình tượng Tổ quốc, nhân dân luôn được nhìn qua lăng kính hoành tráng, vĩ mô. Không chỉ hướng tầm nhìn về chiều kích mang tầm rộng lớn, trường ca là thể loại có khả năng tái hiện những quan niệm cao cả song cũng đầy suy tư của cả một thế hệ trẻ về hình tượng đất nước. Với sức dung chứa của trường ca, cái tôi trữ tình được trải mình trên những quan niệm đẹp đẽ về đất nước. Đó không chỉ là sự khái quát đất nước trong cái nhìn cao đẹp, hùng vĩ như ở quan niệm sử thi trước đó. Đất nước trong cảm quan thơ trẻ gắn với những phân tích, lí giải - đây có thể xem là sự tiếp nối sáng tạo của người cầm bút trong việc sử dụng hình thức trường ca để xây dựng diện mạo mới của cái tôi trữ tình sử thi. Lăng kính của cái tôi sử thi ở đây là sự gắn kết giữa cái tôi ngưỡng vọng và cái tôi lí giải về khái niệm đất nước - nhân dân. Đất nước được cắt nghĩa ở cả chiều sâu văn hóa, là sự kết nối giữa truyền thống và hiện tại; là hình tượng gắn với những câu chuyện văn hóa lịch sử, đi cùng những huyền thoại, những trang cổ tích xa xưa…

Trường ca Mặt đường khát vọng được thiết kế theo lối xâu chuỗi trên mạch tư tưởng - cảm xúc. Với chín trường đoạn, tác phẩm là một hệ thống thể hiện sự vận

động và các sắc thái đa dạng của cái tôi trữ tình. Lời chào - Sự nhận thức vị thế của thế hệ trẻ học sinh sinh viên thành thị miền Nam, Báo động - Những biến cố của đất nước, Giặc Mỹ - Chân dung kẻ thù, Tuổi trẻ không yên - Chân dung tự họa và sứ mệnh của tuổi trẻ thành thị miền Nam, Đất nước: Chân dung đáng tự hào của dân tộc, Áo trắng và mặt đường, Xuống đường, Khoảng lớn âm vang: Thế hệ trẻ dấn thân và hành động và Báo bão: Lí tưởng của tuổi trẻ và niềm tin tất thắng. Ứng với mỗi đoạn là diện mạo của cái tôi trữ tình. Cả trường ca hợp thành một tư tưởng lớn về dân tộc, về nhân dân - sinh mệnh của cá nhân không thể tách rời vận mệnh Tổ quốc. Để thể hiện tư tưởng xuyên suốt đó, với quá nhiều chi tiết bề bộn, trường ca có thể được xem là thể loại tối ưu. Qua đó, cái tôi trữ tình được trải mình trên nhiều điểm nhìn nghệ thuật. Ở hai trường đoạn đầu tiên, người nghệ sĩ khắc họa chân dung cái tôi với ý thức khẳng định sự trưởng thành của thế hệ trước tình cảnh đất nước. Từ tuổi nhỏ vô tư đến khi ngẩng mặt lên thấy quân thù là nhận thức của những con người đã ý thức được trách nhiệm đối với quê hương. Bằng lời tâm sự, lời kêu gọi - đối thoại với thế hệ, tác giả đã thể hiện được bức tranh dân tộc trước hoàn cảnh bị xâm lược và quan trọng hơn là từ hoàn cảnh đó, với cách tự sự của trường ca, người đọc thấu hiểu được sự chín muồi trong nhận thức của thế hệ thơ trẻ miền Nam. Cái tôi tự thức thể hiện rõ nét nhất trong quan niệm về cam kết: Ta quay nhìn. Sông đã hóa mênh mông/ Từ trầm tư, sông vỗ sóng trùng trùng/ Những bờ không giới hạn/ Những cam kết hôm nay với trăm đấng anh hùng.

Đến trường đoạn thứ ba, tính chất mở rộng khả năng tự sự của trường ca càng phát huy hiệu quả bằng những chứng cứ đanh thép, có khi dưới dạng những câu trích dẫn nguyên văn lời lẽ dã tâm, đầy thú tính của đế quốc Mỹ: Tao đánh cho mày tiệt đường sinh nở, Tao phá sự tiết trinh của mày để mày đừng mơ với mộng, Tao giết con mày để xem mày thương con hay Việt cộng… Đây là biện pháp tự sự, nhằm tăng tính tư tưởng của trường ca, thể hiện hình tượng cái tôi trữ tình căm uất đến tột cùng. Không chỉ vậy, với lối tăng cường chất tự sự như thế, hình ảnh của khách thể càng gieo vào tâm thức bạn đọc cái nhìn ác cảm; khả năng tố cáo của ngòi bút vì thế mà tăng đáng kể.

Với âm vang của trường ca, đến trường đoạn Tuổi trẻ không yên, chân dung tự họa của thế hệ trẻ kiêu hãnh, đầy những đường nét suy tư được chiết xuất từ các trường độc thoại và thực chất là đối thoại với nhân dân, với Tổ quốc về trách nhiệm của mình đối với sứ mệnh lịch sử dân tộc; từ sự trưởng thành, chín muồi trong tình yêu đất nước đến nỗi hối hận không cùng khi ngoái đầu nhìn lại một quá khứ nhiều ngày mất hướng. Lời thú nhận được thành thật giãi bày qua hàng loạt chi tiết khiến người đọc cảm phục trước ý thức trải nghiệm, nhận đường của một thế hệ trẻ miền Nam: Trong khi nhân dân cần những anh hùng/ Để ra trận và dựng cờ tụ nghĩa/ Thì chúng tôi sống hoài, sống phí/ Sống kiêu sa, ngất ngưởng ở bên lề. Đồng thời, cái tôi tự họa chân dung tinh thần của thế hệ này còn là cuộc đối thoại thảo ngay với những con người đang quay lưng lại với dân tộc, là triết luận sâu xa về vai trò của thế hệ trên đường tranh đấu; là lời thúc giục, kêu gọi đẫm tinh thần kiên trung, bất khuất của một lớp người. Chính nhân dân - thân phận mất nước - đã thức tỉnh một thế hệ trẻ đang còn xoay sở tìm đường. Tính chính luận trong cái nhìn sử thi biến thể, cái nhìn tự nghiệm của cái tôi trữ tình thực sự tạo được sức nặng qua cuộc đối thoại giữa thế hệ trí thức yêu nước miền Nam với nhân dân đang hứng chịu đau thương, mất mát. Chính những cuộc đối thoại qua các tuyến nhân vật - đặc trưng của trường ca - đã khắc họa rất thành công một nét nổi bật của chân dung cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975. Đó là sự phân tích, tự họa thế hệ từ chính trải nghiệm của người trong cuộc.

Từ chân dung thế hệ, mạch tư tưởng - cảm xúc của chủ thể trữ tình chuyển đến chân dung đáng tự hào về đất nước. Xuất phát từ cảm quan lịch sử, văn hóa…, đoạn trích Đất nước có thể xem là một câu chuyện kể rất đẹp và đầy kiêu hãnh về hình tượng Đất nước từ lúc thành hình trong ngày xửa… ngày xưa của mẹ, trong bọc trứng của người mẹ Âu Cơ, trong bốn nghìn năm lịch sử. Chính nhân dân với những phận đời thầm lặng, hi sinh âm thầm, những gánh gồng gieo trồng bao điều đẹp đẽ vào quá khứ dân tộc… đã làm ra đất nước. Với trường đoạn khá quen thuộc này, người đọc nhận ra tư tưởng chủ đạo của Mặt đường khát vọng - Nhân dân là những người làm nên đất nước với chiều sâu lịch sử, văn hóa và chính nhân dân là đối

tượng có trọng trách lưu giữ những gì thuộc về đất nước. Đây là vấn đề mang tầm vóc lớn lao của dân tộc. Thiết nghĩ tách trường đoạn này thành nhiều bài thơ, sẽ chỉ tạo nên được những mảnh ghép về chân dung đất nước. Chỉ có trường ca mới đủ sức dựng nên hình tượng đất nước một cách toàn vẹn đến vậy. Đây cũng chính là sự thể hiện đa dạng cảm xúc của cái tôi trữ tình ở nhiều cung bậc về Đất nước từ trong miếng trầu huyền thoại đếnĐất nước mai sau.

Nguyễn Khoa Điềm đã tái hiện một cách sinh động khí thế hừng hực của tuổi trẻ miền Nam xuống đường, quyết trả mối thù của người thân và đồng bào. Qua những trường đoạn sau, chất tự sự của trường ca được tăng cường ở khả năng tạo nên âm vang của khí thế thời đại; đồng thời khắc sâu chân dung của cả thế hệ trong một diện mạo mới: dấn thân và hành động. Nối tiếp các trường đoạn là thế trận của quân ta và quân thù; là sự sỉ nhục của thế hệ về những thủ đoạn đê hèn của giặc Mỹ;

là lòng căm hận sục sôi của thế hệ để rửa nhục cho gia đình, cho dân tộc… Và cuối cùng là lời thề sẽ biến mặt đường khát vọng thành con đường vinh quang sạch bóng quân thù. Cái tôi sử thi, cái tôi sử thi biến thể cùng hòa trong mạch cảm xúc mãnh liệt của chủ thể thẩm mĩ. Tất cả không nằm ở những luận đề cao siêu, những vấn đề triết luận vĩ mô về quan niệm đất nước, nhân dân… mà nằm ngay trong cảm quan của cái tôi trữ tình về sự gắn kết giữa số phận nhân dân và số phận đất nước. Từ những trường đoạn của trường ca, Mặt đường khát vọng đã thành công trong việc xâu chuỗi những chi tiết thông qua kiểu kết cấu mạch cảm xúc - tư tưởng, khiến cho chất tự sự của tác phẩm cũng mang nhiều hơi hướng trữ tình. Trong những ngôn từ tưởng như giàu tính tự sự đó là cả một chỉnh thể cái tôi trữ tình ắp đầy cảm xúc và khát vọng. Đây có thể xem là sự phát huy hiệu quả thể loại trường ca trong việc khái quát những vấn đề lớn lao đồng thời có thể khai thác đến tận cùng những phức hợp của cảm xúc trữ tình. Với khả năng dung chứa hiện thực rộng lớn của trường ca, thơ trẻ đi đến được mảnh đất trù phú của những vùng cảm xúc sử thi. Ở trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã thành công trong cái nhìn mới về đất nước và nhân dân. Từ những vẻ đẹp và chiều sâu của đất nước, từ những câu hỏi chất vấn thời đại, từ khí thế cuồn cuộn xuống đường đến những điều triết luận về

quan niệm sống, về vận mệnh dân tộc. Hình thức câu thơ của trường ca như tạo dựng được một chuỗi gắn kết tư duy nghệ thuật của tác giả. Đó là sự kết dính giữa tính chính luận - trữ tình, là mạch cảm xúc của cái tôi trữ tình hướng về khát vọng của nhân dân và cũng là mạch suy tư, trăn trở của cái tôi trải nghiệm hiện thực chiến tranh thông qua cái nhìn biện chứng. Chính sự xâu chuỗi những chi tiết dồi dào của trường ca đã đưa Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm trở thành một câu chuyện đầy chất triết luận về những vấn đề sống còn của dân tộc.

Một trong những đặc trưng của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 là hướng cảm xúc, tâm tư về những sự kiện trọng đại của Tổ quốc - nhân dân, khắc dựng chân dung tinh thần của thế hệ trong cái nhìn lạc quan. Song khác với cái tôi sử thi của nền thơ trước đó, cái tôi trong thơ trẻ biểu hiện nguồn cảm xúc lớn về dân tộc trong chiều sâu suy tưởng, trong những lập luận, lí giải có khi chất chồng mâu thuẫn. Chính điều này đã khắc họa thành công diện mạo mới của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ giai đoạn này. Trường ca thể hiện hiệu quả đắc lực trong việc chuyển tải tư tưởng nghệ thuật của người nghệ sĩ trong một cơ cấu nghệ thuật thống nhất.

Với cái tôi sử thi của thơ trẻ, trước những vấn đề đầy ắp tính sự kiện thì trường ca là thể loại đáp ứng rất hiệu quả nhu cầu thể hiện tư tưởng người nghệ sĩ. Tuyến sự kiện được xem lại sợi dây liên kết xuyên suốt toàn bộ mạch tư tưởng của tác phẩm, là cơ sở để cái tôi trữ tình thể hiện nhiều điểm nhìn phức hợp. Thông qua hệ thống nhân vật, trường ca trong thơ trẻ bộc lộ được khá đầy đủ mạch tư tưởng chủ đạo của chủ thể trữ tình.

Với lối kết cấu trường ca theo mạch sự kiện, cốt truyện trong Vách đá Hồ Chí Minh của Thu Bồn, chủ thể trữ tình tạo ra một tình huống đầy tính bi kịch giữa hai tuyến nhân vật: Những người con của Tổ quốc - kẻ thù và Dy Mơ Thưng - Dang Nghi A nhằm làm sáng tỏ niềm tin rất chân thành song cũng vô cùng lãng mạn của dũng sĩ Dang Nghi A với với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng lối thiết kế cấu trúc trường ca theo tuyến sự kiện xoay quanh trục cốt truyện như thế, Thu Bồn đã tạo lập được rất nhiều sắc thái của cái tôi trữ tình. Cái tôi trong tư thế ngỡ ngàng trước một không gian rợn ngợp gắn với nhiều sự kiện hoành tráng, dữ dội: Ngôi sao sớm

long lanh tia mắt/ Sao băng vạch đường vun vút phóng mũi tên/ Vạch vòm trời đo thử cái mông mênh/ Tên chói sáng đất trời đều thấy. Chính không gian lãng mạn đó đã tạo nên cái nhìn dự báo về một cuộc biến thiên đang đón đợi. Đây chính là sự thu hẹp khoảng cách sử thi, chuyển từ không gian cao rộng, đầy lãng mạn về một không gian hẹp, nơi đây nảy sinh mâu thuẫn của tình yêu. Trong không gian đó, cái tôi bộc lộ trở trăn giằng xé trước những chuỗi mâu thuẫn được đẩy lên đến mức cao trào trong niềm tin rạn vỡ của Dy Mơ Thưng. Nhân vật bàng hoàng khi ngỡ Dang Nghi A đang quay lưng lại với tình yêu và đau đớn hơn là lòng tin sụp đổ trong ý nghĩ rằng chàng phản bội Tổ quốc. Tác giả đã dàn dựng khung cảnh mâu thuẫn kép như một bi kịch. Khi xung đột lên đến đỉnh điểm cũng là thời khắc lòng tin của Dy Mơ Thưng dường như không còn chỗ để bấu víu thì bi kịch bắc cầu hồi mở nút qua Giấc mơ chim ưng. Có thể khẳng định cái tôi trữ tình trong trường ca của Thu Bồn là cái tôi chất vấn. Qua hàng loạt hoài nghi của Dy Mơ Thưng, cái tôi như nhập vai vào nhân vật trữ tình để bộc lộ cái nhìn chua chát đầy tính phán xét, đẩy bi kịch lên đến cao trào. Máu cha đổ cho dòng chữ kia chói sáng/ Nhưng cha ơi có một tên bội phản/ Trèo lên xác cha để xóa cả cuộc đời/ Nó là chồng con đó cha ơi/ Là Dang Nghi A, con phải giết. Và bi kịch được giải tỏa trong niềm xúc động tột cùng của chủ thể trữ tình. Không gian sử thi như vỡ òa bởi tiếng súng nổ, bởi dòng chữ Hồ Chí Minh muôn năm khắc sâu vào vách núi và như lặng đi với hình ảnh nhân vật đang đục những con chữ cuối cùng bằng lòng yêu kính thiêng liêng trong niềm xúc động cắn vào môi bật máu của những người chứng kiến: Dang Nghi A treo lơ lững cuối đầu dây/ Anh chao người xua đuổi những đám mây/ Tay hất vội lá, rêu; nâng dòng chữ/ Rồi gục xuống trong vòng tay mệt lử/ sợi dây lạnh lùng níu xuống cả hoàng hôn. Tác giả đã hoàn tất mạch cảm xúc sử thi bằng kết cuộc của cấu trúc trường ca, đưa nhân vật đến đỉnh cao vinh quang, trong cái nhìn ngưỡng vọng của thời đại: Dang Nghi A như ngọn đuốc băng mình/ Gãy đổ cây rừng, vách đá rung rinh/ Đầu ngọn núi đánh đưa trên miệng hố/ Lồng ngực con người căng trong bão tố/ Máu vọt ra mở đường cho vách đá bay lên.

Một phần của tài liệu cái tôi trữ tình trong thơ trẻ việt nam 1965 1975 (Trang 131 - 142)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(213 trang)