Chương 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ 1965 -
3.3. Thủ pháp đối lập và trùng điệp
3.3.1. Đối lập - Cái nhìn luận giải nhiều chiều kích
Đối lập là một phương thức góp phần thể hiện tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ trong cái nhìn luận giải, phân tích. Đặt những hình tượng nghệ thuật, những vấn đề mang tính triết luận… trong thế đối lập, nhà thơ thể hiện được những dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Thông qua hình tượng đối lập, người đọc cảm nhận được sự tương phản trong cái nhìn đối chiếu để từ đó đặt ra những chất vấn, tự vấn. Trong mối quan hệ đối lập, ấn tượng cảm xúc của độc giả được tăng cường.
Không khuôn mình vào lí tưởng đẹp đẽ đầy hào sảng của cái tôi sử thi, cái tôi trữ tình trong thơ trẻ độc thoại và đối thoại qua chân dung tự họa. Những cảm xúc căng tràn chất sử thi không còn độc chiếm trong mạch cảm hứng của thơ trẻ giai đoạn này. Chủ thể trữ tình đi vào tận sâu cuộc sống, chiếm lĩnh cuộc sống, thậm chí dấn thân vào hiện thực xô bồ chi tiết. Số phận dân tộc, con người luôn là điều khiến cái tôi thơ trẻ day diết. Chính vì vậy, tăng cường chất chính luận là nhu cầu bức thiết của tư duy nghệ thuật. Thơ trẻ thể hiện tiếng nói trí tuệ, tiếng nói của lí lẽ. Từ thế hệ nhà thơ lớp trước, đối lập đã là một thủ pháp được ưa chuộng. Chế Lan Viên - nhà thơ của phong cách suy tưởng - đã sử dụng thông thuộc các mệnh đề, các ý tưởng đối lập đặt cạnh nhau, tạo được lớp nghĩa ngôn từ mà nếu từng mệnh đề đứng ra riêng lẻ, sẽ không thể diễn tả được thấu cùng những khái quát mang tầm triết lí:
Ta cách xa nhau một tiếng nấc, một thôi đường/ Xưa Nguyễn khóc - thì nay ta đã hát/ Nhưng Truyện Kiều cứ để yên, không cần lau nước mắt/ Đời đang vui đời sẽ viết thêm chương (Đọc Kiều). Hay đến với Tố Hữu, người đọc cũng khám phá được hình tượng cái tôi trữ tình sử thi mang đậm tính chính luận được xây dựng qua kết
cấu đối lập: Chúng muốn đốt ta thành tro bụi/ Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm/
Chúng muốn ta bán mình ô nhục/ Ta làm sen thơm ngát giữa đầm (Việt Nam - máu và hoa). Đến lượt lớp nhà thơ trẻ, họ cũng chọn cho mình cách tạo ra những ý tưởng đối lập để tăng cường chất trí tuệ cho thơ. Thế hệ trẻ 1965 - 1975 không chỉ phân tích hiện thực mà còn lí giải hiện thực, qua đó trình bày quan niệm về cuộc sống và con người, về trách nhiệm của thế hệ với sứ mệnh dân tộc. Lẽ sống của người lính, của hầu hết thế hệ trẻ là cái vội vã, hối hả để kịp sống vắt mình cho dân tộc, cho nhân dân và cho chính đời mình. Bên cạnh hợp ca hào sảng của cái tôi trữ tình sử thi, trong tâm hồn thơ trẻ còn là trăn trở, dằn vặt; là triết lí về quy luật được - mất; là chất chồng mâu thuẫn. Vì vậy, thơ trẻ tìm đến với thủ pháp đối lập để cất dựng chân dung cái tôi trữ tình trong những trạng huống tương phản:
Tuổi trẻ bây giờ là như thế đó Xin tự do người ta tặng ngục tù Xin no ấm người ta cho đói khổ Xin tình thương người ta cho hận thù Xin thanh bình người ta cho chinh chiến
(Thơ tôi bây giờ - Đam San) Chủ thể khắc họa chân dung tinh thần thế hệ không ngại ngần phơi bày cái giá chua chát của chiến tranh. Qua hàng loạt trùng phức những hình ảnh đối lập, cái tôi trữ tình lột tả trạng thái tinh thần phức hợp của một thế hệ oán thán, thậm chí chống đối chiến tranh. Trong cái nhìn đối lập, rất nhiều hình tượng thơ được xây dựng đầy ám ảnh. Viết về tội ác của kẻ thù, ngòi bút thơ trẻ xoáy vào nỗi hờn căm của dân tộc. Tội ác đó được bóc trần không chỉ qua cảm quan sử thi mà còn qua lăng kính sử thi biến thể và cả cảm quan phi sử thi. Ở đó, thơ trẻ dừng lại trước bao nhiêu cảnh khốn cùng mà nhân dân phải gánh chịu trước sự đàn áp dã man của quân thù.
Bắn giết, thiêu hủy, bắt bớ… thậm chí những trò mua vui hèn hạ như hãm hiếp, mua tiết trinh, tiệc tùng trên máu và nước mắt của đồng bào ta… đều được phơi trần dưới lăng kính bội phần căm thù của thế hệ thơ trẻ, đặc biệt là dưới ngòi bút của phong trào sáng tác học sinh sinh viên thành thị miền Nam. Bằng thủ pháp tương
phản, người nghệ sĩ đã khiến người đọc cảm nhận nỗi căm thù đến tận xương tủy của nhân dân lúc bấy giờ qua sự đối lập giữa một bên là cuộc sống con người và một bên là sự giam cầm cuộc sống con người, một bên là sinh mạng con người và một bên là sự coi rẻ sinh mạng con người, một bên là sự rêu rao đạo đức giả của kẻ thù và một bên là tội ác còn vấy máu. Tất cả hình ảnh đối lập đó càng khẳng định sự căm phẫn chính là một trạng thái cảm xúc thường trực của cái tôi trữ tình: Chúng xây nhà tù nhiều hơn trường học/ Mỗi xã thôn đều có chỗ giam người/ Mạng sống con người, chúng coi tựa trò chơi/ Nhân đạo của quân thù treo trên đầu lưỡi lê dính máu (Sài Gòn ơi! Vùng lên - Trần Quang Long). Trong tư duy của thơ trẻ đô thị miền Nam, lòng căm thù giặc không thể nguôi ngoai bằng tiếng khóc, bằng sự đau đớn tâm can. Với những con người ngày ngày chạm mặt với nỗi đau mất mát, chỉ có niềm căm thù sục sôi, cứng rắn vượt lên trên nỗi đau tinh thần mới có thể rửa hận cho gia đình, cho dân tộc: Không, phải dằn tiếng nấc/ Cho giận ứ buồng tim/ Chúng ta không thể khóc/ Khi quân thù còn bên (Đêm nào ngày nào - Trần Quang Long).
Dùng lối diễn đạt đối lập, thơ trẻ còn thể hiện mối thương cảm đối với những sinh linh vô tội trong chiến tranh. Những tuổi thơ không có tuổi thơ, Em gái mười lăm đã không còn thiếu nữ (Những tuổi thơ - Lưu Quang Vũ); Những gì em cần, anh chẳng có (Từ biệt - Lưu Quang Vũ)… Chỉ có đặt hạnh phúc lẽ ra con người phải được tận hưởng so với nỗi bất hạnh mà họ phải gánh chịu, thơ trẻ 1965 - 1975 mới lột tả đến tận cùng bi kịch của lịch sử - di chứng tinh thần mà chiến tranh đã đè nặng lên bao mảnh đời tội nghiệp: Nhìn em để xót thương cho những tuổi thơ buồn thảm/ Của những người cha, người mẹ, người anh/ Tuổi hoa em trong mùa đông ảm đạm/ Trọn cuộc đời chưa thấy một ngày xanh (Ngày sinh của bé - Trần Quang Long). Khi lật trở nhiều sự thật của chiến tranh, cái tôi trữ tình càng không tránh khỏi những lập luận về thực chất của chiến tranh, là nỗi đau không đếm xuể xác người: những chiếc băng ca chở kín xác người/ đẩy sâu mãi vào lòng tôi thù hận/
nhưng có băng ca nào chở hết xác dân tôi (Bài hát trái tim - Tần Hoài Dạ Vũ). Dẫu tự nghiệm về mình, về đồng đội với bộn bề trăn trở trước hiện thực tàn khốc của chiến tranh song đích đến và cũng chính là một trong những yếu tố tạo nên bản sắc
của tư duy thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 là ươm niềm tin ngay trên những thành phố chết. Chất triết luận trong việc xây dựng hình tượng cái tôi trữ tình cũng xoay quanh trục nhận thức này. Quan niệm về sự hồi sinh của dân tộc, sự đổi đời của thân phận người dân mất nước đưa các nhà thơ trẻ tìm đến với hình thức nghệ thuật đối lập. Qua đó, họ muốn khẳng định sâu sắc hơn, quả quyết hơn niềm tin vào tương lai. Hơn nữa, đây chính là cách để thơ trẻ khắc họa một cách hoàn thiện chân dung của thế hệ mình. Như lời tạ ơn của Đông Trình với cuộc đời, cũng có được từ nỗi xúc động đã đến lúc bật thốt thành lời: Hình như lâu nay tôi là người câm/ Lời mẹ mớm cho, tôi không biết dùng/ Bỗng sáng nay vô vàn tiếng nói/ Giữa ngực đời, tôi mấp máy cám ơn! (Giọt lệ mừng). Hay đó còn là giọt mừng lóe lên trong tâm cảm của chủ thể trữ tình khi đứng trước sự hồi sinh của dân tộc. Niềm rạng rỡ, mừng tủi của con người không thể kiềm nén trong những hình tượng đối lập đầy sức gợi: Vực sâu, hố thẳm, ao bùn và những cánh sen tinh khiết; thành phố chết và mầm sống. Như vậy với nghệ thuật xây dựng hình tượng thơ này, các nhà thơ trẻ khắc họa được một cuộc sống mới của dân tộc đã bừng dậy ngay từ trong đổ nát, đau thương. Cái tôi trữ tình thể hiện cái nhìn biện chứng về lịch sử của quê hương, đi từ trong hoang tàn đổ nát về với bến bờ của sự hồi sinh. Ở đây, chính những hình tượng đối lập này còn thể hiện một quan niệm của thơ trẻ bấy giờ, đó là sức mạnh niềm tin - vẻ đẹp tinh thần vĩnh cửu - của thế hệ chống Mỹ: Ôi kiêu hãnh thay quê hương ta/ Từ dưới vực sâu, hố thẳm, ao bùn/ Vẫn nở ngát những cánh sen tinh khiết/ Trên lâu đài của một thành phố chết/ Sáng hôm nay mầm sống đã hồi sinh (Hoa đã hướng dương - Đông Trình). Tuy nhiên, khi đối diện với bản thể hiện sinh đầy bế tắc, một bộ phận nhà thơ vùng tạm chiếm miền Nam tìm đến cách nói đối lập để thể hiện sự chua chát về một sự sống trùm phủ cái chết: hôm qua ta bỗng chết hai lần/ té ngửa trên bờ dĩ vãng xanh/ hôm nay bỗng chết thêm lần nữa/ té sấp trên đường tương lai đen (Những trận chết - Đynh Trầm Ca).
Trên địa hạt tình yêu, cái tôi trữ tình được biểu hiện dưới nhiều sắc thái, nhiều dạng thức phong phú. Mỗi một dạng thức đều đi vào những điều sâu kín nhất mà cũng phức tạp nhất trong tâm hồn nghệ sĩ. Ở một số cây bút, thủ pháp đối lập là
cách để họ thể hiện những cảm giác òa lên trong hạnh phúc tái sinh hay đó cũng chính là nơi người đọc sẽ tìm thấy những chênh chao, hụt hẫng… khi tình yêu tạ từ người. Sau bao gãy đổ của đời tư, sau quá nhiều được - mất trong đời, con người không thể giấu được tiếng hạnh phúc đang ùa đến trong trái tim yêu rộn ràng. Hạnh phúc tưởng phải lịm đi sau nhiều thăng trầm đã đến lúc phải vỡ ra thành lời yêu thương. Cái tưởng rất mâu thuẫn trong cảm xúc lại trở nên có lí. Kết cấu đối lập như hàm chứa một quy luật tình yêu: Trước tình em đáng lẽ phải lặng yên/ Nhưng hạnh phúc làm anh không nén được (Những ngày chưa có em… - Lưu Quang Vũ). Có khi bắt gặp trong thơ tình giai đoạn này điều quá đỗi giản dị cũng khiến những người yêu nhau ngỡ ngàng hạnh phúc: Em không bước ra từ một tấm gương câm/ Không đến từ một con tàu trong trí nhớ/ Không phải từ một giấc một dòng sông hay lùm cây rực rỡ/ Em đến giữa một ngày trong những ngày sống thực của anh (Em - Lưu Quang Vũ). Hạnh phúc có thật, hạnh phúc với những gì hiện hữu, hạnh phúc ở ngay trong cuộc đời bình dị nhất mới là hạnh phúc đích thực. Có lẽ đây là quan niệm về hạnh phúc rất trần trụi của không nhiều những tiếng thơ 1965 - 1975. Song chính quan niệm đó đã góp phần làm đa diện hơn quan niệm tình yêu đương thời. Quả thật, thơ tình thời chống Mỹ không chỉ có sắc hương ngọt ngào của những mối tình vừa nhen e ấp, không chỉ có hương tình sôi nổi vụng về nén chặt mà ở đó còn có những sắc điệu yêu thương day diết.
Có khi ngay ở hình ảnh đối lập trong tiếng thơ tình phức tạp vùng tạm chiếm miền Nam bấy giờ, còn tìm thấy cái tôi khát khao nói được đến tận cùng những mâu thuẫn thật khó lí giải trong cõi tình. Người đọc cảm nhận sâu sắc lời thú nhận của người thơ về sự tồn tại một thế giới rong ruổi của gió với những thiên tình thần thoại như thế giới tình yêu màu nhiệm, dù cho con người phủ nhận sự có mặt của mình trong cõi nhân gian. Dẫu chạy trốn cuộc đời, chìm vào thế giới hư vô, dẫu tận cùng cô độc song cái tôi vẫn không thể chối từ sự linh diệu của cõi yêu thanh tân:
trong cuộc đời này có lúc tôi không còn nữa/ nhưng gió vẫn muôn đời với thiên tình thần thoại/ gió vẫn còn tự do rong chơi/ gió vẫn hồn nhiên mãi mãi/ như tình yêu bao giờ cũng vẫn còn trẻ lại/ như mặt trời ngày nào cũng tập đi (Gió - Ngô Kha).
Trong đạn bom thời khốc liệt, ngỡ cái tôi tình yêu chỉ còn có thể nén lại cõi riêng để hướng về một tình yêu quá đỗi lớn lao - tình yêu Tổ quốc. Vậy mà trong thế giới nghệ thuật thơ tình bấy giờ, người đọc vẫn tìm thấy không ít cái tôi tình yêu thật đến xót lòng, qua nghệ thuật xây dựng hình tượng đối lập. Nghe như là phủ nhận song sâu thẳm đấy là lời khẳng định một cách táo bạo rằng tất cả những gì cao rộng, mênh mông nhất trên đời đều vô nghĩa khi con người phải cách chia: Anh ơi,/
Nếu được ví cao xa thế/ Em cũng không là trời đất gì đâu/ Nhưng anh có biết không: Trời đất/ Sẽ chả là gì, nếu thiếu nhau (Trời và đất - Phan Thị Thanh Nhàn).
Hình thức đối lập còn đưa đến một cách bộc bạch của những trái tim nặng lòng với nghiệp thơ. Trong nhãn quan Xuân Quỳnh - người đàn bà sinh ra vốn thuộc về thế giới của những đam mê nghệ thuật - không còn gì trong cõi đời nếu ngày mai em không làm thơ nữa. Người nghệ sĩ đó đã đi đến tận cùng các mặt đối lập, tận cùng những phủ nhận: dẫu - nhưng, không, chẳng, không còn, không thể còn để khẳng định tình yêu sâu nặng của mình đối với thơ ca. Đây là khát vọng thành thực của một trái tim khát yêu, khát viết và khát viết để được yêu. Nếu ngày mai em không làm thơ nữa có thể xem là chuỗi hình tượng đối lập, thể hiện niềm đam mê nghệ thuật đến cạn cùng: Nếu ngày mai em không làm thơ nữa/ Cuộc sống trở về bình yên/ Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm/ Không nỗi khổ, không niềm vui kinh ngạc (…) Nghe tiếng con tàu em không thể hiểu/ Tấm lòng anh trong mỗi chuyến đi xa/ Em không còn thấy nhớ những sân ga/ Những nơi đã đi, những nơi chưa hề đến/
Khát vọng anh dẫu hòa trong sóng biển/ Sóng xô bờ chẳng rộn đến tâm tư.
Thủ pháp đối lập được các nhà thơ trẻ sử dụng tương đối nhuần nhuyễn để thể hiện những quan niệm nghệ thuật về nhiều vấn đề của cuộc sống, hay những tâm sự riêng tư. Ở mỗi khía cạnh, các tác giả đều khai thác triệt để hiệu quả tu từ của thủ pháp này để đưa đến cho người đọc một cách tiếp cận khá toàn diện về diện mạo của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ. Thông qua những hình tượng đối lập, người đọc cảm nhận thấu hơn đời sống tâm hồn không hề đơn điệu của những con người từng ngày đối mặt với nỗi đau chiến tranh. Qua những hình tượng thơ đó, độc giả có cái nhìn thấu đáo hơn về sắc diện tinh thần của cái tôi thơ trẻ một thời.