Chương 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ 1965 -
3.4. Bản tự thuật đa giọng điệu
3.4.4. Giọng âu lo, dự cảm
Thế giới riêng tư trong thơ trẻ 1965 - 1975 đối diện với những góc khuất bi kịch. Như đã khẳng định, đây hoàn toàn không phải là trạng thái tinh thần chủ đạo của người nghệ sĩ, song chính sự xuất hiện của cái tôi chông chênh với cảm giác mất mát trong thơ trẻ giai đoạn này đã hình thành thanh âm dự cảm xót đau.
Trong các nhà thơ trẻ, phải nói Xuân Quỳnh đã đi đến cùng những tiên cảm về hạnh phúc trần thế. Ngay trong chặng sống hạnh phúc, bình yên nhất, hồn thơ ấy cũng rung lên sắc giọng phấp phỏng, chênh chao: Mùa thu nay sao bão mưa nhiều/
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng/ Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm/ Em lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh (Tự hát). Cái tôi rơi vào trạng thái trơ trọi giữa không
gian đầy bão gió, không gian hoang lạnh. Giọng thơ chính là tiếng hớt hải của chủ thể đi tìm mình trong cõi sâu hút của tình yêu. Bởi mang trái tim quá sức vì chăm chút yêu thương, bởi khát khao thâu hết cõi nhớ cõi yêu về với thiên chức của người phụ nữ và cũng bởi mang trái tim đa đoan, thơ Xuân Quỳnh ăm ắp thanh âm dự cảm cách ngăn. Nhiều khi người thơ không thể đặt hết niềm tin vào người mình yêu.
Trong tôi là giọng đan cài mâu thuẫn. Nhớ mong rồi chất vấn, tự nhủ rồi lại tự vấn:
Dẫu nhớ em xa quá không gian/ Chớ thương em một mình vất vả/ Em ở đây bạn bè đông đủ cả/ Anh đi con đường này không anh? (Viết trên đường 20).
Ngẫm nghiệm trước cái chênh vênh của tình yêu diệu vợi, giọng thơ Xuân Quỳnh thao thiết với nghìn nỗi lo âu: Anh, con đường xa ngái/ Anh, bức vẽ không màu/ Anh, nghìn nỗi lo âu/ Anh, dòng thơ nổi gió…/ Mà em người đời thường/ Biết là anh có ở (Anh). Có lẽ bản chất của tình yêu là khao khát vươn đến sự hoàn thiện, vì thế trong những câu chuyện tình tứ giản dị, sáng trong của người phụ nữ vẫn không giấu được cảm thức e ngại, thậm chí không hài lòng khi được người yêu bày tỏ lời khen. Điều tưởng nghịch lí trong hồn thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng trở nên có lí.
Có lí một cách duyên dáng, nũng nịu. Cái tôi cứ thành thật trong giọng ưu tư, lo lắng: Em sợ lời khen của anh/ Như sợ chiều về, hắt tối/ Nhiều khi ngồi buồn một mình/ Trách anh sao mà nông nổi (Anh đừng khen em). Qua nhiều lần vay trả để có lại yêu thương, sau nhiều đổ vỡ, phải nói trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, Lưu Quang Vũ là nhà thơ đã để lại nhiều nhất những cung âm dự cảm, lo âu, phấp phỏng về những điều quá mỏng manh trong hành trình con người kiếm tìm hạnh phúc. Hay có thể khẳng định giọng điệu dự cảm, tiên liệu chính là âm bản của thăng trầm trong cuộc đời người nghệ sĩ đa đoan này. Đến với thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ, người đọc hẳn đến được vùng cảm xúc không bình lặng với giọng thảng thốt trong dự cảm chia xa, giọng hối hả trước bao dự định còn dang dở: Riêng lòng anh anh không quên đâu/ Chỉ sợ trời mưa đổi mùa theo gió/ Cây lá với người kia thay đổi cả/ Em không còn màu mắt xưa (Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa).
Trong thế giới nghệ thuật thơ trẻ, thiên nhiên là nơi đồng hành với nhiều ẩn ức của con người và đó cũng là khoảng không gian thành hình những dự cảm của
người nghệ sĩ. Hồn thơ Nguyễn Duy từng khắc khoải trước cái phẳng lặng của ngày mai, giọng thơ thảng thốt trong nỗi niềm khát gió: Trái đất sẽ ra sao khi một ngày nào kia không còn gió nữa/ lá cây bỗng hết xào xạc/ mây dừng lại và sao thôi nhấp nháy/ mùi hương hoa rụng xuống gốc cây hoa/ hạt phấn chết im lìm trong vỏ lép (Gửi từ vùng gió Phan Rang). Bên cạnh đó, giọng nghiệm sinh về hạnh phúc dễ tan vỡ của kiếp người còn được gửi vào không gian mưa. Hầu hết trong thơ Lưu Quang Vũ là những cơn mưa tàn nhẫn, mưa tựa hạnh phúc mong manh. Đắm mình trong màu mưa tâm trạng nên sau mỗi lần rạn vỡ, cái tôi nhà thơ cảm thấy rát đau vô cùng: Mưa trên đường xa, mưa trên cửa sổ tâm hồn/ Ôi tuổi thanh xuân trôi qua bằng những đêm trăn trở (Những ngày chưa có em...). Không gian đẫm mưa ấy kéo theo một chuỗi thời gian nhiều nếm trải. Ở đó, tuổi thanh xuân của đời người lại được đo bằng khoảng thời gian nặng trĩu ưu tư. Mưa vừa là không gian tâm trạng, vừa là dấu hiệu thời gian trôi chậm đến nao lòng. Giọng thơ vì thế giằng xé, trắc trở:
Mưa cướp đi ánh sáng của ngày/ Đường chập choàng trong mối lo khó gỡ/ Thức chẳng yên nên dở dang giấc ngủ/ Hạnh phúc con người mong manh mưa sa (Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa).
Sống trong hiện thực máu và súng luôn là mối đe dọa kinh hoàng, những tưởng các nhà thơ trẻ trong lòng đô thị miền Nam chỉ có thể trải mình trong cái tôi căm hận, oán thán; những tưởng xâm chiếm hết hồn thơ họ chỉ là những niềm đau chung đã ngấm lịm vào da thịt. Vậy mà trong tiếng lòng chung đó, người nghệ sĩ vẫn dành một góc nhỏ để trải nghiệm về trạng thái cô độc của hiện tại và xót xa hơn là tiên liệu về một khoảng thời gian định mệnh. Giọng thơ chùng xuống, đẫm buồn song cái tôi vẫn gắng gượng trong sắc giọng da diết nhớ. Giọng giằng xé của cái tôi cô độc như lạc đi trong nước mắt của chia li: Bây giờ những buổi chiều còn lại một mình/ em có biết chăng đời tôi rồi sẽ có một sớm mai nào/ ra đi không ngày trở lại/
tôi vẫn nhớ em khi đêm tối về/ âm thầm khóc trong chiếu chăn/ những giọt lệ vàng thánh thiện như nước mắt chim khuyên (Những buổi chiều một mình - Thái Ngọc San). Lê Văn Ngăn - cây bút của phong trào học sinh sinh viên thành thị miền Nam - cũng mang sắc giọng dự cảm trong tình yêu. Ở hồn thơ của một người đang rơi
vào tuyệt vọng, mây trời u ám là không gian của mòn mỏi đợi chờ; giọng thơ như hỏi như than: Anh sẽ lui về thành thị cũ/ soi mắt em trong tấm gương mờ/ ngó qua mái ngói mây trời đục/ biết đến đêm này khuya có mưa (Bên hồ Thủy Ngữ). Cái tôi mang cảm thức hiện sinh đeo đuổi âu lo, như là sự phản tỉnh tự do, là “dấu hiệu trung thực của hiện sinh” trong thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam kéo theo những sắc giọng khắc khoải đầy dự cảm. Bắt gặp rất nhiều trong sáng tác của họ giọng điệu mang nặng cảm thức về thân phận định mệnh: Em đã chết lẽ nào em đã chết/
Chết trên xe lửa trúng mìn chết vô tình cho lịch sử/ Và phải anh còn sống đêm nay như những đêm nào/ Thấp thỏm đi dây trên lằn ranh sống chết chông chênh (Những người chết vô tình cho lịch sử - Tô Thùy Yên); ôi em mưa lạnh núi sông/ ngày đi vỡ nát cánh đồng tình yêu/ trong xa biển sóng thủy triều/ bóng em đâu thấy bọt bèo giạt trôi (Mưa thu trên quê hương - Thế Viên). Ngay trong cái nồng nàn, tình tứ, người thơ vẫn không giấu được sắc giọng hoài nghi, vồ vập trong nỗi sợ dở dang, tiếc nuối: trao hết cho nhau, tình vẫn còn ngờ/ vẫn chưa đủ vẫn còn như thiếu thốn/
chân bước chậm sao đường về vẫn ngắn/ hôn nát nhàu cả mặt vẫn chưa buông (Dỗ giấc người bất hạnh - Du Tử Lê). Hay giọng tiên cảm về tương lai tuyệt vọng cũng là sắc giọng thường trực trong thế giới thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam, khi cái tôi trữ tình đứng giữa cảm giác thời gian đồng hiện - ngay trong hiện tại đã phấp phỏng những ngày đang đón đợi người thơ phía trước, khi cái tôi thơ trẻ vùng tạm chiếm miền Nam đối mặt với bi kịch đời tư:anh lang thang từ mùa xuân/ và cánh đồng cỏ nhọn/ những đồi cao lẫn khuất trong anh/ như thể đó mùa hạ sau sắp nở/
anh cũng già nua cùng tuyệt vọng/ như nắng mai (Trên đỉnh trời An Khê - Trần Thúc Vũ); Ta làm chim tuyệt vọng bỏ quên trời/ Nên cánh vỗ như tay chào vĩnh biệt/ Nên hót điệu khàn khàn thống thiết/ Em có chiêm bao thấy ngậm ngùi? (Giữa trần gian tuyệt vọng - Nguyễn Tất Nhiên). Cũng có khi thơ trẻ vang tỏa cung giọng phức hợp của trạng thái cái tôi vàng võ ưu phiền trước hố thẳm đau thương:
Anh sống làm quen cùng cái chết Liếm lấy mặn mà trên đau thương Chìm mãi xuống em và mất tích Như mặt trời rã trong nước loang
(Hải phận - Tô Thùy Yên)
“Giọng điệu chủ yếu không những không loại trừ mà còn cho phép tồn tại trong tác phẩm văn học những sắc điệu khác nhau” [81, tr.169]. Sự thể hiện cái tôi trăn trở về số phận con người trong chiến tranh đã hình thành trong thơ trẻ chất đằm sâu, trầm buồn; đậm tâm sự cá nhân mà giàu sức ám ảnh; nồng nàn mà rất thâm trầm trên nền cảm xúc và suy tưởng. Với cảm thức của cái tôi chiêm nghiệm thân phận đời tư, thấm thía nỗi đau chiến tranh, đối mặt với bi kịch riêng tư, quả thật thơ trẻ 1965 - 1975 có khi đã phá vỡ giọng điệu sử thi - vốn là “chủ âm” của bản hòa ca cách mạng, tạo sắc giọng riêng tây, rất thành thực của chủ thể sáng tạo. Từ đó, góp phần hòa phối nên bản tự thuật đa giọng điệu của thơ trẻ giai đoạn này. Thực tế chiến trường ác liệt và không khí chiến đấu của những năm 1965 - 1975 đã tạo điều kiện cho thơ trẻ bắt nhịp với cảm hứng sáng tạo. Trong dàn hòa ca đó, thơ trẻ đã xuất hiện nhiều giọng riêng và nhiều sắc giọng đa dạng, hợp thành giọng điệu đặc trưng của thơ 1965 - 1975. Dù đó là giọng ngợi ca hào sảng, giọng tin yêu đằm thắm, giọng suy tưởng trầm buồn hay giọng tiên cảm xót xa thì bật lên trên hết vẫn là chất đắm đuối trong những hồn thơ mặn mà với hiện thực đời sống. Với sự thể hiện giọng điệu nghệ thuật, thơ trẻ càng khắc sâu hơn sự đa diện của cái tôi trữ tình, vốn được xem là biểu hiện sắc nét của chân dung tinh thần thơ 1965 - 1975.
Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975 được thể hiện thông qua một số phương thức nghệ thuật khác nhau: thể thơ, thủ pháp nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu. Dù chưa phải hoàn toàn là những sáng tạo đặc sắc, song qua thế giới nghệ thuật ngôn từ được kết tinh từ ý thức trách nhiệm của ngòi bút, từ quan niệm về thơ và từ chất liệu sống dồi dào, thế hệ thơ trẻ đã thể hiện ý thức trong việc tìm tòi những hình thức biểu đạt phù hợp. Lực lượng thơ trẻ đã có ý thức khai thác tối đa hiệu quả thẩm mĩ của các phương thức biểu hiện nhằm thể hiện khá sinh động các dạng thức của cái tôi trữ tình; đồng thời phần nào khẳng định cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ và thể hiện được phong cách của một thế hệ.