1.3. Kinh nghiệm phát triển các KCNN tại một số địa phương và bài học cho tỉnh Nghệ An
1.3.1. Sự phát triển Khu công nghiệp nhỏ tại một số địa phương
Nam định là một tỉnh nghèo, thuần nông, ngư nghiệp, công nghiệp chủ yếu là dệt, may, cơ khí, tiểu thủ công nghiệp là những làng nghề đồ mộc, đúc , thủ công nghệ…, bình quân thu nhập đầu người thấp, hàng năm phải xin ngân sách Trung ương hỗ trợ. Nam Định có điểm xuất phát thấp so với các tỉnh trong vùng và khu vực, do vậy chỉ có phát triển công nghiệp, dịch vụ Nam Định mới vươn lên và khẳng định được là tỉnh trung tâm của vùng Đồng bằng nam sông Hồng.
Tháng 11 năm 2003 Ban Quản lý các KCN, KCNN tỉnh Nam Định được thành lập và đi vào hoạt động. Sau hơn 2 năm xây dựng và phát triển các KCN, KCNN bước đầu đã có những kết quả.
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển các KCN, KCNN của tỉnh đến năm 2015, tầm nhìn 2020, Ban quản lý các KCN, KCNN đã hoàn thành công tác khảo sát thực tế, lập báo cáo quy hoạch xây dựng 12 KCN tập trung và 2 KCNN tầu thủy trên địa bàn tỉnh.
Băng nhiều hình thức quảng bá các lợi thế về đầu tư của tỉnh Nam Định trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt đã xây dựng các chương trình giới thiệu Nam Định trên đĩa CD, trên trang web của tỉnh gây được ấn tượng tốt đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Sau hơn 2 năm xây dựng và phát triển, đến nay Nam Định đã có một khu CN quy mô 327 ha đi vào hoạt động, đó là KCN Hòa Xá.
Đến hết năm 2005, KCN Hòa Xá đã có 74 dự án được cấp phép với tổng mức vốn đầu tư đăng ký theo dự án là 2.854 tỷ động và 58,4 triệu USD, diện tích
44
đất thương phẩm các dự án đăng ký thuê đạt 200 ha, số lao động sẽ thu hút, theo dự án: trên 2,5 vạn lao động. Hiện có 55 dự án đi vào hoạt động (trong đó có 3 dự án đầu tư FDI, 1 dự án liên doanh) với tổng mức đầu tư của các dự án vào KCN này là: 1.574 tỷ đồng trên mức vốn đăng ký 2.854tỷ đồng đạt 55,15% và 21,3 triệu USD/ 58,4 triệu USD vốn đăng ký đạt 36,5%.
Trong tổng số 74 dự án được cấp phép đã có 55 dự án đi vào sản xuất giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 đạt: 467,20 tỷ đồng, vượt 26% so với kế hoạch; doanh thu đạt 787,40 tỷ đồng, vượt 26% so với kế hoạch; doanh thu đạt 787,40 tỷ đồng, vượt 57% so với kế hoạch, bước đầu nộp ngân sách đạt 37,80 tỷ đồng vượt 150% so với kế hoạch và lượng hàng hóa xuất khẩu đạt trên 40 triệu USD. Kết quả trên đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
Các dự án đi vào hoạt động đã tạo ra trên 10.000 việc làm cho lực lượng lao động trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, qua khảo sát ở các doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, số công nhân có trình độ tay nghề khá còn ít ở tất cả các ngành nghề, số lao động mới được tuyển dụng chưa quen với tác phong và phương pháp quản lý công nghiệp, chưa phù hợp với sức ép về thời gian, nội quy và yêu cầu về kỹ thuật của các doanh nghiệp.
Thành công của việc xây dựng & phát triển KCN Hòa Xá là sự khởi đầu cho sự phát triển các KCN, CCN tỉnh Nam Định, có ý nghĩa quan trọng mở ra quá trình phát triển các KCN, CĐCN khác của tỉnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong tổng GDP, tạo sự bứt phá trong kinh tế xã hội của tỉnh.
Thành công trên được xuất phát từ những nguyên nhân chính là:
45
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật về giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống dịch vụ kỹ thuật v.v… của tỉnh đã từng bước được cải thiện có chiều hướng thuận lợi cho đầu tư của các nhà đầu tư.
Cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư của tỉnh thông thoáng tạo sức thu hút nhà đầu tư. Bên cạnh đó, trình độ cán bộ công chức trong Ban Quản lý các KCN, CCN và các doanh nghiệp từng bước được hoàn thiện. Nội bộ đoàn kết có sự kết có sự phối hợp tích cực giữa chính quyền và các tổ chức đoàn thể như công đoàn, đoàn thanh niên qua đó phát huy đầy đủ tính dân chủ trong cơ quan, doanh nghiệp.
Bên cạnh những thành công, còn bộc lộ những hạn chế cần khắc phục, nhằm từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động KCN, CCN của tỉnh:
Trong công tác quản lý chưa xây dựng được quy chế phối hợp giữa Ban Quản lý và các ngành chức năng có liên quan của tỉnh, nên một số hoạt động có nơi có lúc còn bị chồng chéo gây tốn kém thời gian của doanh nghiệp.
Công tác đầu tư hạ tầng chưa thật đáp ứng kịp thời đòi hỏi của các Nhà đầu tư, một số hạng mục có tiến độ chậm.
Việc cung cấp các dịch vụ phục vụ cho doanh nghiệp tuy đã được quan tâm, cải tiến song có mặt còn hạn chế, có lúc còn gây bức xúc cho doanh nghiệp.
Việc phối hợp giữa các doanh nghiệp trong quá trình SXKD còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, tốc độ thu hút đầu tư còn chậm, đặc biệt là là đầu tư FDI;
chưa mời gọi được những dự án lớn, những nhà đầu tư tầm cỡ thế giới và khu vực đến đầu tư tầm cỡ thế giới và khu vực đến đầu tư.
Một số vấn đề quan trọng có tính quyết định trong quá trình hình thành và phát triển là công tác đầu tư hạ tầng, công tác kêu gọi xúc tiến đầu tư. Để đảm bảo cho quá trình xúc tiến đầu tư được thuận lợi, tránh những thiệt hại không
46
đáng có cho nền kinh tế quốc dân nói chung. Ban quản lý tỉnh nam Định đã có các giải pháp và kiến nghị các cơ quan hữu quan với nội dung sau:
1. Chính phủ cần có cơ chế chính sách ưu đãi cho những tỉnh không có lợi thế về thu hút đầu tư (là những tỉnh có vị trí địa lý không thuận lợi, xa trung tâm, hạ tầng cơ sở, dịch vụ kém, thu nhập bình quân thấp).
2. Có cơ chế khuyến khích, ưu đãi đầu tư hợp lý cho những doanh nghiệp xây nhà cho công nhân.
3. Mở rộng hệ thống đào tạo nghề ở các tỉnh trên cơ sở dự báo những ngành công nghiệp se đầu tư nhằm đáp ứng yêu cầu về cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng.
1.3.1.2. Phát triển Khu công nghiệp nhỏ ở tỉnh Vĩnh Phúc
Trên cơ sở nghiên cứu lợi thế của các ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh, nghiên cứu xu hướng chuyển dịch các ngành công nghiệp từ Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc Bộ, nghiên cứu xu thế phát triển các ngành dưới tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, có thể đưa ra thứ tự ưu tiên các ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) như sau:
(1) Công nghiệp hỗ trợ sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy;
(2) Công nghiệp hỗ trợ điện tử-tin học;
(3) Công nghiệp hỗ trợ cơ khí chế tạo;
(4) Công nghiệp hỗ trợ sản xuất vật liệu xây dựng;
(5) Công nghiệp hỗ trợ dệt
Trong giai đoạn 2001-2011 ngành công nghiệp- xây dựng phát triển rất mạnh, đặc biệt là công nghiệp đóng vai trò là nền tảng của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, tạo vị thế mới cho công nghiệp Vĩnh Phúc đối với vùng đồng bằng sông Hồng và với
47
cả nước. Giá trị tăng thêm ngành Công nghiệp- xây dựng năm 2010 đạt 7.410,3 tỷ đồng, năm 2011 đạt 8.617,4 tỷ đồng tăng 16,29% so với năm 2010.
Giá trị sản xuất ngành Công nghiệp- Xây dựng (giá so sánh) tăng từ 5.552 tỷ đồng năm 2000 lên 43.857 tỷ đồng/năm 2010 và 51.157 tỷ đồng/năm 2011.
Tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2001-2010 đạt 22,9%/năm (vượt mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2006-2010 đề ra là 18,5-20%/năm). Năm 2011, giá trị sản xuất ngành công nghiệp (giá so sánh) đạt 49.218 tỷ đồng, tăng 14,08% so với năm 2010 (42.234 tỷ đồng). Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006-2010 tăng 22,64%. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng cao do thu hút được nhiều dự án từ khu vực FDI và DDI, các doanh nghiệp đã mở rộng sản xuất, sản lượng các sản phẩm chủ yếu đều tăng cao, năm 2011 sản lượng một số sản phẩm chính đạt được: Xe máy các loại 2,4 triệu chiếc, tăng 25%/năm; gạch ốp lát 58,8 triệu m2, tăng bình quân 51,1%/năm, quần áo các loại 50,5 triệu chiếc, tăng bình quân 47,3%/năm, gạch xây dựng 1.020 triệu viên, tăng bình quân 9,5%/năm, riêng ô tô 29.429 chiếc, giảm 14,5%;. Bên cạnh đó, nhiều dự án mới đi vào hoạt động đã góp phần tăng giá trị sản xuất ngành công nghiệp.
Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn được quan tâm đầu tư phát triển, giai đoạn 2006-2010 đã hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho 5 làng nghề (Thanh Lãng, Thị trấn Yên Lạc, Tề Lỗ, Vĩnh Sơn và Thị trấn Lập Thạch), hỗ trợ đào tạo nghề cho hàng ngàn lao động thuộc các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ: mây tre đan, mộc mỹ nghệ, điêu khắc đá và khảm trai. Một số làng nghề truyền thống đã và đang dần được khôi phục, phát triển như: đá Hải Lựu, rèn Lý Nhân, mộc Bích Chu, Thanh Lãng, đan lát Triệu Đề, gốm Hương Canh. Nhiều làng nghề mới đang dần được hình thành như: mộc Lũng Hạ-Minh Tân, ươm tơ, dệt lụa, mây tre đan xuất khẩu như: Nguyệt Đức, Trung Kiên, An Tường, Bắc
48
Bình, Liễn Sơn… Đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển công nghiệp của tỉnh Vĩnh Phúc. Chỉ tính từ năm 2006 đến tháng 12/2011, Vĩnh Phúc đã thu hút được 70 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký gần 1,56 tỷ USD của 12 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những Tập đoàn lớn trên thế giới như: Toyota, Honda, Daewoo, Piaggio, Compal, Hồng Hải... Các dự án đầu tư vào tỉnh trong những năm qua đã tạo điều kiện hình thành nên các trung tâm công nghiệp lớn về sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy; trung tâm sản xuất vật liệu xây dựng và đang từng bước hình thành trung tâm sản phẩm điện tử viễn thông, công nghệ cao. Từ kết quả về thu hút đầu tư trên, đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, thể hiện trên các mặt sau:
- Ngành công nghiệp (giá so sánh) đạt tốc độ tăng bình quân 22,64/năm giai đoạn 2006-2010, trong đó: công nghiệp nhà nước giảm -2,29%/năm, công nghiệp ngoài nhà nước tăng 14,34%/năm, công nghiệp có vốn FDI tăng 24,30%/năm. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng cao do trong giai đoạn này thu hút được nhiều dự án từ khu vực FDI và DDI, các doanh nghiệp đã mở rộng sản xuất, sản lượng các sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều tăng cao, xuất hiện một số sản phẩm mới có giá trị cao như ô tô buýt, xe máy Piagio, sản phẩm công nghệ cao như: cảm biến hình ảnh cho điện thoại di động và màn hình tinh thể lỏng (Cty TNHH Micro Shine Vina)…
- Số doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu trên đia bàn tỉnh là 164 doanh nghiệp. Trong đó: 87 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 77 doanh nghiệp trong nước. Thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tới hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: cơ khí, xe máy và linh kiện xe máy, phụ tùng ô tô, đệm ghế ô tô, dệt may, linh kiện điện tử, chè. Thị trường nhập khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh chủ yếu là
49
Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Iatlia mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là dây chuyền, máy móc, công nghệ tạo tài sản cố định, nguyên vật liệu phục vụ xuất khẩu cho các doanh nghiệp FDI. Phần nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước, địa phương chỉ chiếm 8-10% tổng kim ngạch nhập khẩu.
- Thu ngân sách hàng năm từ các dự án FDI chiếm trên 80% tổng thu ngân sách toàn tỉnh hàng năm.
- Giải quyết việc làm cho gần 2,6 vạn lao động trực tiếp trong các nhà máy.
Trong đó lao động là người của tỉnh Vĩnh Phúc chiếm trên 60%, riêng 3 năm gần đây mỗi năm giải quyết việc làm cho trên 01 vạn lao động, chưa kể các lao động trực tiếp thi công trên các công trường xây dựng và lao động gián tiếp khác.