Tác động kinh tế

Một phần của tài liệu Phát triển các khu công nghiệp nhỏ ở tỉnh nghệ an (Trang 100 - 104)

3.2. Tình hình phát triển các KCNN tại Nghệ An 2006-2014

3.3.1. Tác động kinh tế

- Đóng góp của KCNN vào GDP của tỉnh

Quy hoạch phát triển 34 KCNN đến năm 2020 với tổng diện tích là 730,21 ha [UBND tỉnh Nghệ An, Đề án quy hoạch phát triển các KCNN ở tỉnh Nghệ An đến năm 2020]. Dự kiến đất dành cho sản xuất khoảng 450 - 500 ha đáp ứng và thu hút khoảng 500 - 550 doanh nghiệp đầu tư sản xuất dịch vụ công nghiệp, TTCN, tạo sự chuyển dịch trong cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại, làm biến đổi cả về mặt chất và mặt lượng. Về chất, với mục tiêu là nơi chỉ dành cho tập trung sản xuất các KCNN sẽ có tác dụng phát huy những mặt mạnh mang tính công nghiệp của sản xuất, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư mới, hoặc chuyển dịch phải đầu tư một cách bài bàn, không thể

92

làm manh mún hoặc chắp vá như trong thời gian trớc hoặc đầu tư tại các vùng riêng lẻ và phải tuân thủ những quy định chung của KCNN tạo nên không gian và môi trường làm việc hiện đại. Về mặt lượng, đương nhiên là các KCNN sẽ góp phần tăng giá trị sản xuất, tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu GDP của tỉnh.

Các KCNN là nơi tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất ra các sản phẩm tiêu dùng trong nước và các mặt hàng xuất khẩu. Hàng năm, các KCNN đã đóng góp vào việc tăng trưởng chỉ số GDP của các địa phương.

Ở Nghệ An, theo báo cáo tình hình kinh tế- xã hội năm 2014 thì: “Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) 9 tháng năm 2014 ước đạt 39.488,5 tỷ đồng, tăng 6,9% so với cùng kỳ. Ước tính GDP cả năm 2014 đạt 56.688,6 tỷ đồng, tăng 7,24%/KH 7-8%; trong đó, khu vực nông, lâm, ngư nghiệp ước đạt 14.337,1 tỷ đồng, tăng 3,85%; khu vực công nghiệp - xây dựng ước thực hiện 18.495,8 tỷ đồng, tăng 8,72% (riêng công nghiệp tăng 12,05%, xây dựng tăng 4,89%); khu vực dịch vụ ước thực hiện 23.855,7 tỷ đồng, tăng 8,22% so với cùng kỳ năm 2013). Tốc độ tăng trưởng năm 2014 (7,24%) cao hơn tốc độ tăng trưởng của 2 năm gần đây (2012 tăng 6,1%, 2013 tăng 6,5%) và cao hơn mức tăng trưởng bình quân của cả nước (ước 5,8%) [ UBND tỉnh Nghệ An, Báo cáo tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Nghệ An năm 2014]. Giá cả ổn định hơn, chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 năm 2014 tăng 2,51% so với tháng 12/2013. GDP bình quân đầu người ước đạt 25 triệu đồng/người (năm 2013 là 22,96 triệu đồng). Trong đó, giá trị sản xuất của các doanh nghiệp hoạt động trong các KCNN đạt xấp xỉ 2.000 tỷ đồng/năm chiếm 12 % giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh.

- Đóng góp của KCNN vào thu Ngân sách của tỉnh

93

Hằng năm, sự phát triển của các KCNN đem lại nguồn thu tăng dần cho ngân sách của tỉnh. Đây là nguồn thu nội địa có đóng góp vai trò quan trọng trong ngân sách của tỉnh Nghệ An các năm qua.

Năm 2014, tỉnh Nghệ An đã thu ngân sách 10 tháng đạt 6.182,948 tỷ đồng, bằng 91,8% dự toán, tăng 17,2% so với cùng kỳ. Trong đó: Thu nội địa 5.141,381 tỷ đồng, bằng 88,3% dự toán và tăng 15,3% so với cùng kỳ; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 1.029 tỷ đồng, bằng 114,3% dự toán, tăng 27,6% so với cùng kỳ; Thu từ xổ số kiến thiết: 12,567 tỷ đồng, bằng 104,7% dự toán, tăng 6,4% so với cùng kỳ. Ước thực hiện thu ngân sách năm 2014 đạt 7.400 tỷ đồng, bằng 109,9% dự toán HĐND tỉnh giao, tăng 16,7% cùng kỳ, trong đó: thu nội địa 6.200 tỷ đồng, bằng 106,5% dự toán, tăng 14,7% cùng kỳ, thu thuế xuất nhập khẩu 1.186 tỷ đồng, bằng 131,8% dự toán, tăng 28,8% cùng kỳ. Trong đó thu ngân sách từ các doanh nghiệp trong các KCNN đạt 150 tỷ đồng, đạt 2,02 % nguồn thu cho ngân sách của tỉnh Nghệ An. [UBND tỉnh Nghệ An, Báo cáo tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Nghệ An năm 2014].

- Đóng góp của KCNN vào kim nghạch xuất khẩu

Các KCNN có ưu thế là sản xuất các sản phẩm phục vụ xuất khẩu như dệt may, giày da và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Hàng năm, đóng góp của các KCNN vào kim ngạch xuất khẩu là không nhỏ, giá trị xuất khẩu của các KCNN tăng dần qua các năm. Các mặt hàng xuất khẩu là sản phẩm chủ đạo xuất khẩu của tỉnh Nghệ An, là mặt hàng Việt Nam có thế mạnh và đem lại giá trị xuất khẩu cao.

Tổng kim ngạch xuất khẩu tháng 11 năm 2014 ước đạt 68 triệu USD, bằng 78,3% so với tháng 11/2013. Tính chung 11 tháng ước đạt 615 triệu USD, tăng 2,72% so với cùng kỳ năm 2013, tăng 18,2% so với kế hoạch năm 2014. Trong

94

đó giá trị xuất khẩu hàng hóa ước đạt 368,5 triệu USD, tăng 9,35% so với cùng kỳ. Các mặt hàng có giá trị xuất khẩu tăng cao: Hàng dệt may tăng 2,67 lần; cà phê tăng 2,65 lần... trong đó giá trị xuất khẩu hàng hóa 11 tháng năm 2014 trong các KCNN ước đạt 10 triệu USD [ UBND tỉnh Nghệ An, Báo cáo tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Nghệ An năm 2014].

- Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Phát triển các KCNN là từng bước nhằm xây dựng một nền công nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Cơ cấu kinh tế của Việt Nam nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng vẫn là nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Xây dựng và phát triển các KCNN là góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nâng cao tỷ lệ khu vực công nghiệp trong cơ cấu kinh tế.

Đánh giá chung từ năm 2010 đên năm 2014, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, ví dụ như: Khu vực nông lâm ngư nghiệp giảm từ 27,77% năm 2013 xuống 25,42% năm 2014; khu vực công nghiệp – dịch vụ tăng từ 31,36% năm 2013 lên 31,85% năm 2014; khu vực dịch vụ tăng từ 41,69% năm 2013 lên 42,74%

năm 2014 [UBND tỉnh Nghệ An, Báo cáo tình hình kinh tế- xã hội tỉnh Nghệ An năm 2014].

Bên cạnh đó, phát triển các KCNN góp phần tăng hiệu quả và nâng cao trình độ công nghệ thông qua ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, bảo quản và chế biến, tạo nên đội ngũ lao động có tay nghề cao ở các địa phương làm động lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển theo hướng thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá nông thôn, thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế của các vùng khác nhau trên địa bàn tỉnh. Xây dựng nông thôn mới có hạ tầng phát triển theo hướng hiện đại, gắn với đô thị hoá. Phát triển đa dạng các ngành nghề,

95

nhất là những ngành nghề sử dụng nhiều lao động có giá trị gia tăng và giá trị xuất khẩu cao.

Ngoài ra, phát triển các KCNN còn có thể huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân đầu tư phát triển công nghiệp, tạo ra khối lợng sản phẩm vật chất lớn cho nền kinh tế.

Khai thác được tiềm năng sẵn có của từng địa phương về tay nghề, lao động, vốn,... chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá có năng suất, chất lượng và hiệu quả, góp phần xoá đói giảm nghèo.

Hình thành và phát triển một số cụm điểm dân cư mà trước hết là hình thành một số thị trấn như: thị tứ Đồng Thành, Nam Giang, Diễn Hồng,… rút ngắn sự cách biệt trên các mặt đời sống, chính trị - xã hội giữa nông thôn và thành thị, giữa miền xuôi và miền núi.

Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong các KCNN đảm bảo thực hiện đúng quy hoạch và làm tốt công tác thẩm định không chỉ thu hút các nhà đầu tư mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh hoặc di chuyển ra khỏi thành phố đông dân cư nhằm giải quyết tốt vấn đề ô nhiễm môi trường, tái tạo quỹ đất mới phục vụ mục đích chung của cộng đồng dân cư.

Một phần của tài liệu Phát triển các khu công nghiệp nhỏ ở tỉnh nghệ an (Trang 100 - 104)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(146 trang)