Xây dựng, phát triển xã hội đoàn kết, đồng thuận, công bằng, an sinh, văn minh - điều kiện và nội dung thực hiện dân chủ XHCN trong lĩnh vực

Một phần của tài liệu (Luận án tiến sĩ triết học) Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới (Trang 102 - 106)

Chương 3 NHỮNG NỘI DUNG MỚI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.2. NHỮNG NỘI DUNG MỚI TRONG NHẬN THỨC VỀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

3.2.4. Xây dựng, phát triển xã hội đoàn kết, đồng thuận, công bằng, an sinh, văn minh - điều kiện và nội dung thực hiện dân chủ XHCN trong lĩnh vực

Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện dân chủ XHCN trong lĩnh vực xã hội là xây dựng, phát triển xã hội bình đẳng, đoàn kết, công bằng và tiến bộ. Theo tinh thần đó, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong bước đầu xây dựng CNXH, kể cả trong điều kiện đất nước có chiến tranh xâm lược, Đảng ta đã giải quyết tương đối thành công các vấn đề xã hội, đem lại độc lập, tự do, dân chủ, cơm ăn, áo mặc, học hành và nhiều lợi ích thiết thân khác cho đông đảo nhân dân. Tuy nhiên, do nóng vội, chủ quan, duy ý chí, nên sau năm 1975, khi cả nước thống nhất quá độ lên CNXH đất nước ta dần rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Nhiều nhu cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất, tinh thần chưa được bảo đảm; người có công với cách mạng, thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ chỉ được

Nhà nước bảo đảm một số chế độ trợ cấp ở mức thấp; tiêu cực xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm... Trước tình trạng đó, để khắc phục khó khăn Đảng ta đã từng bước đổi mới tư duy lý luận về CNXH, dân chủ XHCN và con đường xây dựng CNXH, xây dựng nền dân chủ XHCN, trong đó có đổi mới tư duy, nhận thức về điều kiện và nội dung thực hiện dân chủ XHCN trong lĩnh vực xã hội.

Tại Đại hội VI (1986) Đảng ta chủ trương: cần có hệ thống chính sách đối với mỗi giai cấp và chính sách xử lý quan hệ giữa các lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội để xây dựng cơ cấu giai cấp của xã hội mới, trong đó, bảo đảm

"lợi ích thiết thân của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội” [38, tr.102]. Thực chất đó là xây dựng và thực hiện hệ thống các chính sách xã hội nhằm "phát huy nhân tố con người, lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất; làm cho những nguyên tắc công bằng xã hội và lối sống lành mạnh được khẳng định trong cuộc sống hằng ngày của xã hội ta” [38, tr.91]. Phương châm chung để giải quyết các vấn đề xã hội là "Nhà nước và nhân dân cùng làm”, trong đó, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, kể cả thiết chế gia đình có vai trò quan trọng. Tất nhiên, việc thực hiện các chính sách đó phải phù hợp với yêu cầu, khả năng, nhất là trình độ phát triển kinh tế của đất nước trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH.

Theo tinh thần đó, các văn kiện Đại hội VII có nhiều bổ sung quan trọng. Đáng chú ý là: Thứ nhất, khẳng định quan điểm: "chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”; "chính sách xã hội tác động trực tiếp đến việc hình thành một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh” [38, tr.321; 323]; Thứ hai, "Đề cao trách nhiệm, tính tự lực, tự chủ của mỗi người, mỗi công dân tự giải quyết những vấn đề của bản thân và gia đình mình; đồng thời tăng cường cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội” [38, tr.425]; Thứ ba, đoàn kết tất cả mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới, vì độc lập dân tộc, phấn đấu thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh; lấy đại nghĩa dân tộc làm điểm tương đồng, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung, cùng nhau xóa bỏ mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai [38, tr.436].

Tại Đại hội IX (2001) lần đầu tiên Đảng ta sử dụng thuật ngữ an sinh xã hội trong văn kiện Đại hội Đảng. Theo đó, Đảng ta chủ trương: “từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân”; “Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng” [38, tr.741; 652]. Tiếp tục tinh thần đó, nhiệm kỳ Đại hội X, XI và các văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng đã làm sâu sắc thêm nhiều nhận thức về bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, an sinh, đồng thuận, công bằng, văn minh và phát triển xã hội bền vững.

Có thể khái quát, nhận thức mới của Đảng trong 30 năm qua về xây dựng điều kiện xã hội và thực hiện dân chủ XHCN trong lĩnh vực xã hội ở Việt Nam gồm:

Thứ nhất, chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ. Bảo đảm phát triển bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Công bằng xã hội thể hiện ở việc phân phối hợp lý tư liệu sản xuất, phân phối kết quả sản xuấtđiều kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng...

Thứ hai, để có dân chủ cần phải xây dựng, thực hiện hệ thống chính sách đối với mỗi giai cấp và chính sách xử lý quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội để xây dựng cơ cấu xã hội mới, trên cơ sở bảo đảm lợi ích thiết thân của mỗi giai tầng xã hội. Trong đó, giai cấp công nhân cùng với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là cơ sở tạo nên nền tảng chính trị - xã hội bảo đảm sự thống nhất của cơ cấu xã hội đa dạng luôn biến đổi phức tạp ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Xây dựng cộng đồng xã hội văn minh trên cơ sở liên minh công, nông, trí thức; đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, đồng thuận xã hội là một trong những điều kiện không thể thiếu để thực hiện dân chủ XHCN ở Việt Nam.

Thứ ba, giải quyết có hiệu quả bằng hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật những vấn đề xã hội cụ thể, thiết thân đối với các giai cấp, tầng lớp, nhóm, thành phần xã hội phù hợp với sự biến đổi của cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội của đất nước.

Nhất là vấn đề việc làm, tiền lương; bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội; an toàn thực phẩm; bảo đảm nhà ở, an toàn giao thông, đô thị; vấn đề giáo dục, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường; phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; xóa đói, giảm

nghèo, hạn chế phân hóa giàu nghèo… Bảo đảm an toàn cuộc sống cho mọi thành viên cộng đồng, bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống; người có công với nước có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn; các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu. Đây là bảo đảm về mặt xã hội từ chiều sâu đạo lý và pháp lý cho sự ổn định và phát triển bền vững của nền dân chủ XHCN ở nước ta.

Thứ tư, xây dựng, thực hiện hệ thống chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người, bảo đảm tiến bộ xã hội, công bằng xã hội, an sinh xã hội và an toàn xã hội theo tinh thần đề cao trách nhiệm, tính tự lực, tự chủ của mỗi người, mỗi công dân tự giải quyết những vấn đề của bản thân và gia đình mình; đồng thời chú trọng xã hội hóa, tăng cường cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội; thực hiện phương châm ích nước lợi nhà, Nhà nước và nhân dân cùng làm đối với các vấn đề xã hội. Đây vừa là nhiệm vụ, nội dung vừa là phương thức, điều kiện quan trọng để thực hiện dân chủ XHCN trên lĩnh vực xã hội trong tiến trình đổi mới đất nước theo định hướng XHCN.

Thứ năm, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội. Hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Ðảng và Nhà nước, nhất là về các chính sách kinh tế, xã hội, về quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển quan trọng. Ban hành Luật về hội để phát huy tốt vai trò tự chủ, tự quản của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của mỗi người dân trong việc quản lý và tổ chức đời sống cộng đồng theo quy định của pháp luật. Đây là hệ thống thiết chế xã hội cơ bản có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển xã hội dân sự văn minh - một điều kiện khách quan không thể thiếu trong quá trình dân chủ hóa XHCN.

Như vậy, trong thời kỳ đổi mới, tuy chưa chính thức xác định mô hình phát triển xã hội một cách tổng quát nhưng những nội dung cơ bản của mô hình đó đã được khẳng định [60, tr.120]. Đoàn kết, đồng thuận, công bằng, an sinh, văn minh là những yếu tố cơ bản làm nên điều kiện xã hội và nội dung thực hiện dân chủ XHCN trong lĩnh vực xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Những thành tựu

to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 30 năm đổi mới, trong đó có thành tựu giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện dân chủ XHCN trong lĩnh vực xã hội đã xác nhận rằng, chủ trương thực hiện đoàn kết, đồng thuận, công bằng, an sinh, văn minh theo định hướng XHCN là cơ bản phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế sâu rộng. Những quan điểm lý luận này vừa là sự kết tinh truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kinh nghiệm quý báu của thế giới và những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là sự phản ánh sinh động những nhu cầu xã hội khách quan của đất nước ta trong quá trình đổi mới xây dựng CNXH, xây dựng, phát triển nền dân chủ XHCN.

Một phần của tài liệu (Luận án tiến sĩ triết học) Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới (Trang 102 - 106)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(179 trang)