Lâm Quang Thiệp Trường Đại học Thăng Long
TÓM TẮT
Bài viết nêu hai ý tưởng về giáo dục đại học (GDĐH) và nghiên cứu của Hoa Kỳ mà Việt Nam nên học tập: phân tầng hệ thống GDĐH và quản lý đầu tư nghiên cứu.
Trong phần thứ nhất bài viết lưu ý nên coi trọng việc xây dựng một “hệ thống GDĐH đẳng cấp thế giới”, theo nghĩa một hệ thống GDĐH mạnh, hơn là chỉ tập trung xây dựng vài
“trường ĐH đẳng cấp thế giới”. Hệ thống GDĐH mạnh là hệ thống có nhiều tầng bậc, nhiều nhiệm vụ, nhiều kiểu chức năng và loại hình, đáp ứng nhu cầu đa dạng của việc đại chúng hóa GDĐH, và tầng nào trong hệ thống cũng thực hiện tốt sứ mệnh của mình. Trong hệ thống có sự phân công về nhiệm vụ của từng tầng, tổ chức tốt mối liên kết giữa các trường trong một tầng và giữa các tầng với nhau. Để xây dựng hệ thống GDĐH phân tầng, kinh nghiệm của hệ thống GDĐH bang California Hoa Kỳ được giới thiệu.
Trong phần thứ hai bài viết lưu ý nên coi trọng việc quản lý đầu tư nghiên cứu. Mô tả so sánh về cơ cấu hệ thống GDĐH và nghiên cứu ở Việt Nam và Hoa Kỳ, bài viết vạch rõ sự khác biệt giữa hai hệ thống ở chỗ lực lượng nghiên cứu của Hoa Kỳ phần lớn tập trung trong hệ thống GDĐH, còn ở Việt Nam tồn tại sự tách biệt giữa hệ thống viện nghiên cứu mạnh và hệ thống GDĐH. Các ý tưởng đặc biệt về quản lý đầu tư nghiên cứu của Hoa Kỳ do Vannevar Bush đề nghị được giới thiệu, trong đó nhấn mạnh việc Nhà nước tài trợ chính cho nghiên cứu cơ bản; ưu tiên tài trợ cho nghiên cứu của các trường ĐH, nơi có đào tạo;
và đảm bảo quá trình lựa chọn và đánh giá có tính cạnh tranh cao bởi các đồng nghiệp trên cơ sở trình độ khoa học chứ không phải dựa vào chính trị hoặc thương mại.
Cuối mỗi phần có giới thiệu tóm tắt các khuyến nghị mà Việt Nam nên học tập từ Hoa Kỳ để xây dựng hệ thống GDĐH và nghiên cứu của mình.
TỪ KHÓA
Trường ĐH đẳng cấp thế giới, Hệ thống GDĐH đẳng cấp thế giới, phân tầng, California’
Master Plan, phát triển KH&CN, Vannevar Bush.
GIỚI THIỆU
Về mục tiêu “chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo” Nghị quyết 29 của Hội nghị Trung Ương 8 khóa 11 ĐCSVN về giáo dục đã lưu ý: “tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại”.
Khi nói về hội nhập giáo dục đại học (GDĐH), người ta thường nghĩ trước hết đến GDĐH Hoa Kỳ, vì đó là nền GDĐH thành công nhất trên thế giới. Điều đó có thể thấy rõ qua tiến
33
trình Bologna của Liên minh châu Âu [http://ec.europa.eu…/bologna_en.htm], qua việc tiếp nhận mô hình GDĐH Hoa Kỳ của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc v.v…Trong quá trình đổi mới GDĐH Việt Nam từ thập niên 1990 đến nay chúng ta cũng đã học tập nhiều từ Hoa Kỳ [Lâm Quang Thiệp, 2007]. Tuy nhiên, tại diễn đàn này chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh hai ý tưởng quan trọng liên quan đến GDĐH Hoa Kỳ mà chúng ta nên lưu ý nhiều hơn để học tập, đó là phân tầnghệ thống GDĐH và quản lý đầu tư nghiên cứu.
PHÂN TẦNG HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Về những cố gắng nâng cao năng lực của hệ thống GDĐH nước ta
Trong mấy năm qua Nhà nước đã cố gắng thực hiện một số hoạt động để phát triển GDĐH nước ta. Chẳng hạn, việc tìm nhiều nguồn lực trong và ngoài nước đề xây dựng các trường đại học liên kết với nước ngoài, kỳ vọng chúng sẽ trở thành các trường đại học “đẳng cấp thế giới”; cố gắng triển khai các chương trình đào tạo tiên tiến, hy vọng hình thành một số ngành đào tạo đẳng cấp thế giới, để mở rộng dần thành các trường đại học đẳng cấp thế giới. Trường đại học đẳng cấp thế giới trở thành mục tiêu “mơ ước” và được ghi vào kế hoạch chiến lược dài hạn của nhiều trường, các trường lạc quan thì đề ra thời hạn vài thập niên, các trường thận trọng hơn thì đưa vào tầm nhìn năm bảy thập niên.
Trường đại học đẳng cấp thế giới là phương hướng phấn đấu của nhiều trường đại học thuộc tầng cao ở nước ta. Tuy nhiên, một số câu hỏi nảy sinh: bao giờ thì nước ta mới có được các trường đại học đẳng cấp thế giới? Và nếu tập trung phần lớn nguồn lực để sớm xây dựng được một vài trường đại học như vậy thì các trường đó sẽ đóng góp ở mức độ nào vào mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế xã hội trước mắt cho đất nước? Thế thì các trường học/cao đẳng ở tầng thấp hơn nên phát triển như thế nào để đóng góp chung vào sự phát triển hệ thống GDĐH và phát triển bền vững đất nước?
Vấn đề xây dựng các trường đại học đẳng cấp thế giới không chỉ là mối quan tâm riêng của nước ta, mà cũng là quan tâm chung của nhiều nước đang phát triển. Do đó nhiều nước cũng bàn luận nhiều về mục tiêu này. Có lẽ nên tham khảo một ý tưởng trong Báo cáo của Hội nghị khu vực châu Á – Thái Bình Dương tại Macao tháng 9 năm 2008 chuẩn bị cho Hội nghị Thế giới về GDĐH tại Paris tháng 7 năm 2009. Báo cáo có viết: “Không một quốc gia nào có đủ sức chu cấp kinh phí để mọi trường đại học của mình tương xứng với các trường đại học nghiên cứu đẳng cấp thế giới. Tuy nhiên, tốt hơn hết, nhiều quốc gia có thể định vị trong một thị trường cạnh tranh toàn cầu bằng cách tạo dựng cho mình một “hệ thống đẳng cấp thế giới về GDĐH” hơn là tập trung phần lớn nguồn lực của mình để tạo nên một số ít cái gọi là trường đại học đẳng cấp thế giới”. Hệ thống đẳng cấp thế giới về GDĐH là “hệ thống nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội và sự đa dạng của nền học vấn - năng lực của sinh viên do kết quả của việc đại chúng hóa. Các trường đại học cần có các sứ mạng khác nhau và cần phục vụ nhiều loại nhóm người khác nhau có lợi ích liên quan với GDĐH. Hoạt động cơ bản của GDĐH vẫn là giảng dạy và học vấn, và trong một môi trường toàn cầu ngày càng phức tạp và biến động, sự phù hợp của các hoạt động của chúng đối với các cộng đồng địa phương sẽ trở nên hết sức quan trọng” [Conference Report, 2008].
Nói cách khác, đó là hệ thống GDĐH mạnh, đa dạng, phân tầng, đáp ứng có hiệu quả các yêu cầu khác nhau của sự phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu học tập của nhân dân.
Trong tình trạng hiện nay của GDĐH nước ta, chúng tôi rất tâm đắc với ý tưởng tạo dựng cho mình một “hệ thống đẳng cấp thế giới về GDĐH”.
Thật vậy, với trình độ phát triển hiện nay của nước ta, chúng ta cần một hệ thống GDĐH mạnh hơn là cần chỉ một vài trường đại học “đẳng cấp thế giới”. Ý kiến này không ngược với chủ trương xây dựng một vài trường đại học đẳng cấp thế giới, nhưng ở đây muốn nhấn mạnh hai điều: - một là trong chiến lược phát triển GDĐH nước ta nên trước hết chú ý đến
34
tổng thể cả hệ thống chứ không nên chú ý chỉ đến vài cá thể, - hai là khi xây dựng một trường đại học đỉnh cao cho hệ thống không nên tâm niệm về “đẳng cấp thế giới” mà nên xác định yêu cầu về vai trò của nó trong hệ thống GDĐH ngay ở nước mình.
Cụm từ “hệ thống đẳng cấp thế giới về GDĐH” mà Hội nghị Macao năm 2008 nêu ra có lẽ chủ yếu nhằm đối sánh với cụm từ “trường đại học đẳng cấp thế giới” đã có. Chúng tôi mượn cụm từ này đơn giản chỉ để ngụ ý về một hệ thống GDĐH mạnh, chứ không muốn bàn đến tiêu chí đẳng cấp thế giới của hệ thống GDĐH.
Sở dĩ chúng tôi nêu ý tưởng này vì cảm nhận rằng trong hệ thống GDĐH nước ta mấy năm qua dường như các trường đại học ở tầng cao và đại học “đẳng cấp thế giới” được quan tâm quá nhiều, trong khi các thành phần khác không kém phần quan trọng của hệ thống, chẳng hạn mạng lưới các trường đại học/cao đẳng cộng đồng địa phương [Lâm Quang Thiệp, 2008], mạng lưới các trường đại học ngoài công lập [Lâm Quang Thiệp, 2009] cũng như các đại học mở và đào tạo từ xa [Lâm Quang Thiệp, 2009, 2010]chưa được quan tâm thích đáng.
Nên hiểu thế nào về một hệ thống GDĐH mạnh cho nước ta? Theo chúng tôi, một hệ thống như vậy cần có các đặc trưng sau đây:
Đó là hệ thống GDĐH có nhiều tầng bậc, nhiều nhiệm vụ, nhiều kiểu chức năng và loại hình, đáp ứng nhu cầu đa dạng của việc đại chúng hóa GDĐH, và tầng nào trong hệ thống cũng thực hiện được sứ mệnh của mình. Mục tiêu của việc phân tầng đã được nêu ở Luật GDĐH, là “nhằm phục vụ công tác quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển, nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học; thực hiện quản lý nhà nước”.
Đó là hệ thống GDĐH có sự phân công về nhiệm vụ của từng tầng và tổ chức tốt mối liên kết giữa các trường trong một tầng và giữa các tầng với nhau.
Hệ thống GDĐH phân tầng của California
Để lấy ví dụ về một hệ thống GDĐH mạnh có thể nêu hệ thống GDĐH của bang California thuộc Hoa Kỳ.
Ở bang California, Hoa Kỳ, một Quy hoạch tổng thể (Master Plan) cho GDĐH được chính quyền bang thiết kế vào năm 1960 cho các trường đại học công, phát triển năm 1987 cho cả các hệ thống GDĐH tư và các trường nghề.
Theo Quy hoạch tổng thể, hệ thống đại học công lập được tổ chức thành 3 tầng: tầng trên cùng có 10 trường đại học nghiên cứu và đào tạo tiến sĩ (phần đầu của tên gọi dùng chung nhóm từ University of California - UC), tầng giữa là 23 trường đại học ở chỉ có quyền đào tạo đến thạc sĩ (phần đầu của tên gọi dung chung nhóm từ California State University - CSU) và tầng dưới cùng là 112 trường cao đẳng/đại học cộng đồng có các chương trình đào tạo nghề và đào tạo bằng đại học đại cương 2 năm để chuyển tiếp. Từ hơn nửa thế kỷ trước đây bang California đã quy hoạch hệ thống GDĐH công lập của họ, luật lệ của bang quy định khoảng 12% học sinh phổ thông loại giỏi nhất có quyền vào học ở tầng trường đại học UC, khoảng trên 30% học sinh tiếp theo có quyền vào học các trường CSU, và tất cả các học sinh còn lại có quyền vào các trường cao đẳng/đại học cộng đồng để học nghề hoặc học để các chương trình chuyển tiếp (transfer programs) để lấy bằng đại học đại cương. Tuy nhiên, để khuyến khích sinh viên các trường đại học/cao đẳng cộng đồng, luật lệ của tiểu bang cũng quy định sau khi sinh viên có bằng đại học đại cương 2 năm, tùy theo kết quả học tập có thể được chuyển tiếp lên học giai đoạn giáo dục nghề nghiệp ở các trường đại học thuộc hai tầng trên. Chi phí học tập ở các trường cao đẳng/đại học cộng đồng thường rất thấp (học phí trung bình một năm vào 2012 ở các trường cao đẳng/đại học cộng đồng công
35
lập chỉ 2.713 USD, trong khi ở các trường đại học công lập có đào tạo cử nhân khác là 7.605 USD và ở các trường đại học tư thục là 27.293 USD) [Chronicle of Higher Education, Almanac Issue, 2011-12]. Học sinh học tại bang của mình được trả học phí rẻ và được rất nhiều ưu tiên, do đó đa số học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học thường nhập học đại học tại các trường cao đẳng/đại học cộng đồng ở bang của mình (81% vào năm học 2006). Như vậy, thực tế hệ thống đại học/cao đẳng cộng đồng tạo điều kiện để sinh viên “ăn cơm nhà đi học đại học”. Và có thể nói hệ thống đại học/cao đẳng cộng đồng của Hoa Kỳ là công cụ quan trọng nhất làm cho Hoa Kỳ trở thành một quốc gia thực hiện được đại chúng hóa GDĐH trước đây và phổ cập hóa GDĐH ngày nay trước các quốc gia tiên tiến khác của châu Âu nhiều thập niên. Chính vì nhìn thấy ưu điểm của kế hoach tổng thể xây dựng hệ thống GDĐH California mà các chuyên gia GDĐH của OECD đã khuyến cáo các nước học theo mô hình này để xây dựng các hệ thống GDĐH cho thế kỷ 21, và gọi đó là giấc mơ California (California dream) [The OECD, the Master Plan and the California Dream, 1992].
Làm thế nào để xây dựng được một hệ thống giáo dục đại học mạnh cho nước ta?
Để xây dựng một “hệ thống” tốt cần xác định chức năng và vai trò của các thành viên trong từng tầng bậc của hệ thống và xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên và các tầng bậc của hệ thống.
Về chức năng và vai trò của từng thành viên của hệ thống GDĐH thì qui chế của từng loại trường thuộc từng tầng bậc đại học nói chung cũng như kế hoạch chiến lược của từng trường đại học cần phải thể hiện rõ. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu một vài ví dụ. Chẳng hạn, các đại học quốc gia, đại học trọng điểm của nước ta nên tập trung nhiệm vụ nghiên cứu và đào tạo sau đại học đồng thời đào tạo một số ít chương trình đại học chất lượng cao, tức là tập trung vào chất lượng chứ không phải số lượng. Các trường này không nên làm các nhiệm vụ đào tạo đại trà của hệ thống tại chức trước đây hoặc hệ thống vừa làm vừa học hiện nay, nên dành nhiệm vụ đó cho các tầng đại học thấp hơn. Trong điều kiện hiện nay để tăng thu nhập cho giảng viên các trường đại học tầng cao không nên nhằm vào các hình thức đào tạo của các tầng thấp mà cần nhằm vào kinh phí nghiên cứu khoa học (Nhà nước cũng cần tăng kinh phí nghiên cứu để khuyến khích các trường đại học tầng cao). Các đại học/cao đẳng cộng đồng địa phương thì cần phải thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế xã hội địa phương, tức là chủ yếu đào tạo theo hướng nghề nghiệp ứng dụng, đồng thời thỏa mãn nhu cầu học tập của nhân dân địa phương, tạo mọi điều kiện để nâng cao số lượng thanh niên ở địa phương có thể đi học đại học [Lâm Quang Thiệp, 2009]. Các đại học mở cần đầu tư xây dựng công nghệ giảng dạy cho số đông và thực hiện chức năng chủ yếu của mình là đào tạo mở và từ xa, làm nòng cốt để nâng cao chất lượng của hệ đào tạo không chính quy [Lâm Quang Thiệp, 2009,2010]…
Cần quan niệm rõ là, khác với việc xếp hạng có phần nào dựa vào chất lượng, việc phân tầng chỉ thực hiện theo chức năng, sứ mạng chứ không phải theo chất lượng. Với quan niệm chất lượng là sự trùng khớp với mục tiêu (fitness for purpose), cơ sở GDĐH ở tầng nào cũng phải phấn đấu đạt chất lượng cao nhất. Do đó không có khái niệm cơ sở GDĐH dịch chuyển từ tầng này sang tầng khác, trừ phi cơ sở đó được tổ chức lại và quy định lại hoàn toàn về sứ mạng, chức năng, tức là biến thành một cơ sở GDĐH khác.
Về quan hệ giữa các tầng GDĐH và giữa các thành viên trong từng tầng GDĐH: Cần xây dựng các mối quan hệ hỗ trợ giữa các tầng GDĐH, chẳng hạn các trường đại học ở các tầng cao hỗ trợ phát triển đội ngũ giảng viên cho các trường đại học ở tầng thấp, đồng thời đảm bảo tiếp nhận sinh viên có bằng đại học đại cương từ các trường đại học ở tầng thấp được học chuyển tiếp giai đoạn giáo dục nghề nghiệp v.v..Các mối quan hệ như vậy chẳng những đảm bảo sự liên kết trong hệ thống mà còn giúp đảm bảo chất lượng đào tạo trong cả hệ thống GDĐH. Một trường nào đó dù còn yếu nhưng khi nằm trong một hệ thống GDĐH mạnh cũng có thể phát triển thuận lợi nhờ mối quan hệ hỗ trợ trong hệ thống.
36
Khi nói về kinh nghiệm phân tầng GDĐH ở Hoa kỳ không thể không nhấn mạnh đến hệ thống các trường đại học/cao đẳng cộng đồng. Nhiều học giả Mỹ nhận định rằng trong thế kỷ 20 sự hình thành và phát triển hệ thống đại học/cao đẳng cộng đồng là thành tựu và niềm tự hào to lớn nhất của nền GDĐH Hoa Kỳ (trong khi họ không nhấn mạnh đến việc xây dựng được các trường đại học nghiên cứu đẳng cấp thế giới hàng đầu!). Mô hình về hệ thống đại học/cao đẳng cộng đồng Hoa Kỳ đã giúp Nhật Bản tạo những bước tiến kỳ diệu về kinh tế vào nửa sau thế kỷ 20, cũng như giúp nhiều quốc gia khác (Đài Loan, Hàn Quốc) chuẩn bị nguồn nhân lực để phát triển đất nước.
Ở nước ta từ cách đây 18 năm, Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 2 (khoá VIII) năm 1996 về phát triển giáo dục - đào tạo đã nêu nhiệm vụ “xây dựng một số trường cao đẳng công đồng ở các địa phương để đào tạo nhân lực tại chỗ”. Quyết định 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/07/2007 về quy hoạch mạng lưới trường đại học - cao đẳng 2006-2020 của Thủ tướng Chính phủ lại nêu: “trường cao đẳng cộng đồng là loại trường có nhiều chương trình dạy nghề với thời hạn khác nhau, và chương trình 2 năm đào tạo giai đoạn đầu đại học để chuyển tiếp học giai đoạn giáo dục nghề nghiệp ở các trường đại học có các chương trình chuyên nghiệp.” Thế nhưng cho đến nay hệ thống cao đẳng cộng đồng/đại học địa phương vẫn chưa được chú ý đúng mức, chưa có những quy định rõ về chức năng và cơ chế hoạt động cho hệ thống này, đặc biệt chưa xây dựng được một cơ chế đào tạo chuyển tiếp như Quyết định 121/2007/QĐ-TTg đã nêu. Để xây dựng được một hệ thống GDĐH mạnh tất yếu phải khắc phục các thiếu sót nêu trên.
Tóm lại, từ việc học tập ý tưởng phân tầng GDĐH của California, Hoa Kỳ, chúng ta nên:
Ngoài việc xây dựng một vài trường ĐH “đẳng cấp thế giới”, nước ta cần chú ý nhiều hơn đến việc xây dựng một “hệ thống đẳng cấp thế giới về GDĐH”, hiểu theo nghĩa là một hệ thống GDĐH mạnh, có nhiều tầng bậc, mỗi tầng bậc làm tốt sứ mạng và chức năng của mình.
Ở tầng cao (các đại học nghiên cứu) nên tuyển chọn một số ít sinh viên chất lượng cao, đào tạo nặng về chất lượng hơn là số lượng, chấp nhận sinh viên xuất sắc chuyển tiếp từ các tầng thấp, đồng thời tập trung nghiên cứu và giúp đào tạo giảng viên cho các tầng thấp.
Ở tầng trung (các trường đại học định hướng ứng dụng) tuyển chọn sinh viên chất lượng trung bình, đào tạo nghiêng về ứng dụng và chỉ nên dừng lại đào tạo ở bậc thạc sĩ, chấp nhận sinh viên giỏi chuyển tiếp từ tầng thấp hơn.
Ở tầng thấp, các trường cao đẳng/đại học cộng đồng địa phương tập trung đào tạo nghề, đào tạo một số ngành phục vụ địa phương và đào tạo theo chương trình đại học đại cương để sinh viên chuyển tiếp học giai đoạn nghề nghiệp ở các trường đại học tầng trên.
Các đại học mở tập trung vào giáo dục mở và từ xa để làm nòng cốt tăng chất lượng hệ đào tạo không chính quy cho cả hệ thống.
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới, hoạt động nghiên cứu thường được trển khai ở ba môi trường: các trường đại học, các viện nghiên cứu chuyên biệt ngoài trường đại học, và các tập đoàn sản xuất kinh doanh, trong đó hoạt động nghiên cứu nhận kinh phí của Nhà nước quan trọng nhất là ở hai môi trường đầu tiên.