CHƯƠNG 2. VĂN HỌC BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 1945 – 1975, GIÁ TRỊ NỘI
2.4. Tình yêu, khát vọng tự do, hoà bình
2.4.1. Tình yêu đôi lứa
Tình yêu lứa đôi là đề tài muôn thuở của người sáng tác. Khi nghiên cứu văn học giai đoạn 1945 – 1975 ở Bình Thuận, chúng tôi thấy các nhà văn, nhà thơ như Vũ Anh Khanh, Hoài Khanh, Yên Hy Ba, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Như Mây (ở vùng đô thị) đến các tác giả như Nam Hà, Phan Minh Đạo (ở vùng kháng chiến) đều dành nhiều trang viết về mảng đề tài này. Như một đặc điểm lạ thường, khi chiến tranh càng ác liệt, càng đau thương thì dường như lúc ấy tình yêu lứa đôi, khát vọng sống của con người lại càng bừng lên mãnh liệt.
Nhiều câu chuyện trong các sáng tác Vũ Anh Khanh được xây dựng xoay quanh câu chuyện tình yêu lứa đôi, tình vợ chồng và đời sống hôn nhân. Dù trong hoàn cảnh nào ông cũng dành cho các nhân vật của mình niềm cảm thông và trân trọng. Tình yêu của Niềm đối với Nhàn trong Cây ná trắc nhẹ nhàng, bình dị, sáng trong. Cho dù Nhàn đã có người yêu và sắp thành vợ người khác thì Niềm vẫn cầu mong cho người mình yêu luôn được hạnh phúc. Trong một trận đánh, Niềm bị thương nặng, anh đã trăn trối với Tảo: “Anh săn sóc giùm má ba em và khi nào thái bình anh có gặp Nhàn, anh bảo rằng em vẫn còn nhớ nàng cho đến lúc chết, mặc dầu nàng đã có chồng.” [92, tr.94].
Trong tình cảm vợ chồng, có khi tác giả chú ý nhiều việc phân tích tâm lý nhân vật để thấy được niềm hạnh phúc lứa đôi – vợ chồng và nét đẹp người trai thời chiến. Sự lo lắng của Tảo cho mái ấm gia đình khi lên đường kháng chiến gây xúc động cho bất kỳ ai cùng hoàn cảnh: “Tảo mường tượng bóng vợ ẵm con đứng yên trên một ngọn đồi thông xanh, tầm mắt xa vời, ngóng trông tà áo trắng bay rũ giữa sương chiều rơi mau, làm cho Tảo xót xa nghĩ đến những buổi mong chờ của một người chinh phụ, mặc áo tang, đợi người chồng đã chết ngoài chiến trận – không bao giờ về nữa!” [92, tr.73].
Điều đáng chú ý ở các sáng tác của Vũ Anh Khanh là những câu chuyện về tình yêu lứa đôi luôn được lồng trong tình yêu quê hương. Tình yêu đôi lứa trong sáng, đặt trong tình yêu quê hương cao cả, thiêng liêng: “Mắt Hồ lóng lánh sáng, nàng nhìn một lần chót khoảnh đất thân yêu, ghi sâu vào lòng hình ảnh những con đường cát trắng, những gian nhà bé tý, những vườn cau xanh lá… Bao nhiêu kỷ niệm ngày còn nhỏ dồn dập chạy lại trong đầu nàng, Hồ thẫn thờ: - Nếu em chết, bên kia thế giới em sẽ kể với An rằng: Làng Khánh Thiện vẫn đáng yêu như tự thuở nào!” [92, tr. 58].
Trong nhiều sáng tác của mình, Vũ Anh Khanh thường lặp lại mô tip tình yêu giữa người thiếu nữ quê mùa, hay người con gái đô thành với chàng trai, người anh hùng có chí lớn vì vận mệnh đất nước. Có khi, tình yêu xuất phát từ lòng ngưỡng mộ chí khí anh hùng, yêu người anh hùng như một lẽ sống cao đẹp, có khi để lưu truyền giống nòi, để tiếp thêm sức mạnh giúp người mình yêu hoàn thành sứ mệnh của người trai thời loạn. Trong truyện Phổ xiếu Hùng Lìn Xì (Lửa cháy Hồng Liên Tự), Vũ Anh Khanh ca ngợi tấm lòng người thiếu nữ yêu Mạc Bảo Châu, đã kiên định giữ bí mật, chịu đựng sự tra khảo đau đớn của quân Tôn Sĩ Nghị cuối cùng nàng chọn cái chết để bảo vệ người mình yêu, bảo vệ đứa con cuối cùng của nhà họ Mạc.
Đối với các tác giả sáng tác ở vùng giải phóng, tình yêu đôi lứa gắn với niềm tin mãnh liệt vào nhiệm vụ chính trị của người chiến sĩ cách mạng, đó là sức mạnh chiến đấu, niềm tin chiến thắng. Tình yêu nam nữ đặt trong tình đồng bào, đồng chí. Hay nói cách khác, tình yêu gắn với công cuộc đấu tranh cách mạng giành độc lập, tự do dân tộc.
Trong truyện Ngày rất dài (của Nam Hà), ông Năm B đã yêu cô gái trẻ đẹp ở vùng quê La Gi – Bình Thuận, không chỉ vì cái đẹp, mà vì tính cương trực, dám vượt qua thử thách, khẳng định tình yêu và chấp nhận gian khổ. Tình yêu đó gắn với sự hy sinh vì cách mạng. Sau khi tập kết ra Bắc, theo phân công của tổ chức, ông Năm B lại vào Nam.
Dù đang chiến đấu ngay trên mảnh đất quê vợ thân yêu, nhưng để đảm bảo bí mật, ông phải tin cho vợ hay là đi học ở nước ngoài, ngay cả những đứa con của ông cũng không thể gặp được, không biết sống chết như thế nào.
Chuyện tình cô Xuyến với anh Ba Hoành trong Dưới những cánh rừng ô rô (của Nam Hà) là một chuyện tình đầy đau thương, xúc động. Họ yêu nhau trong thời điểm chiến khu Lê Hồng Phong diễn ra nhiều trận chiến ác liệt. Sau mỗi trận đánh dữ dội tình yêu của họ càng thắm thiết hơn, gắn bó hơn với làng xóm, quê hương. Họ không thể rời xa nhau, khi mang thai, Xuyến vẫn tình nguyện tham gia những trận đánh rất nguy hiểm để bảo vệ chiến khu Lê Hồng Phong.
Tình yêu lứa đôi trong thơ Hoài Khanh mang đến cho người đọc một gam màu trầm, buồn bởi cảm thức chia xa và những dự báo cách trở:
“Rồi em lại ra đi như đã đến Dòng sông kia cứ vẫn chạy xa mù Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu”
(Ngồi lại bên cầu, Hoài Khanh) Hay:
“Em đi lạnh một dòng mưa
Nguồn thanh xuân đó già nua nhánh cành”
(Nhận phận, Hoài Khanh)
Nỗi buồn trong tình yêu cũng gắn với nỗi sầu kiếp người. Nỗi buồn đượm những trải nghiệm về vấn đề lớn lao của thời đại, Hoài Khanh mượn chuyện tình yêu để trải lòng cùng những nỗi niềm còn mất, hợp tan:
“Lâu rồi có phải không em
Tình yêu đó cũng hao mềm như sương Em đi lạnh lẽo trên đường
Bước chân thon có gợi nguồn siêu sinh Có vang từ cõi vô hình
Nhịp luân trầm vọng thanh bình biệt chia Giờ đây đồng vọng bốn bề
Từ Phi, đến Á ta về thiên thu!”
(Đồng vọng, Hoài Khanh)
Tình yêu lứa đôi trong các sáng tác của Yên Hy Ba được phản ánh khá sinh động, thấm đượm nỗi buồn từ cuộc sống nhọc nhằn, vất vả, bất hạnh. Những truyện Tiếng trúc trên đồi, Nước bấc về gành, Trăng trên sông, Thương để trong tim, Dấu nước mắt trên gối hướng người đọc đến những chuyện tình buồn nhưng đầy thi vị. Tình yêu xuất phát từ tình cảm chân thật và thủy chung của lứa đôi. Có khi vì chiến tranh chia lìa, có khi vì lễ giáo, cũng có khi vì tự ái của chàng trai mà họ không đến được với nhau. Mỗi câu chuyện có thể xem như một nốt nhạc buồn. Mỗi câu chuyện lại là một quãng lặng về lòng cảm thông sâu sắc của nhà văn với những trái tim đáng được yêu thương hạnh phúc. Nhân vật Huy trong Tiếng trúc trên đồi là một chàng trai đa tài, nhất là thổi sáo, tiếng sáo của anh rất dễ làm xao động lòng người, nó là tiếng vui, buồn, hờn, giận, là tiếng thay lời muốn nói cho mọi cung bậc thăng trầm của con người trong cuộc sống. Vì rất yêu Thơ và không muốn người yêu mình lấy một người chồng nghèo, hèn nên Huy đăng lính cho Tây mãi tận trời Âu: “Chỉ biết là phải đi. May thì có nhiều tiền để về cưới người thương, không may thì gởi xác ở xứ người cũng chẳng sao” [67, tr. 111]. Huy ra đi để lại bao thương nhớ, lo lắng cho người yêu. Anh đi lính và cái không may – vốn là hậu quả của chiến tranh – đã đến với anh, tiền không có, anh bị thương nặng, thân anh tàn phế, bị hắt hủi, khinh miệt, đói khát, bơ vơ bên xứ người. Hàng ngày anh phải đối
mặt với sự ghẻ lạnh của người đời: “Huy chẳng có được nhiều tiền như ước vọng, cũng chẳng chết được như ý muốn. Huy hiện vẫn là một kẻ nghèo lang bạt, vất vưởng trên đất lạ với mỗi một cái chân còn lại. Cái chân kia đã mất, đôi nạng gỗ giúp anh đi tìm cái sống thãi thừa” [67, tr. 112]. Những người bản xứ họ khinh khi, miệt thị đến đau đớn
“anh tự đày đọa tiếng sáo anh, xui cho người khinh rẻ cả giống nòi” [67, tr. 115]. Giờ đây từ tiếng sáo yêu thương vút lên thành tiếng sáo buồn thương, đau đớn, “sáo đang xuống trầm, dìu dặt, đắm chìm. Tất cả như tiếng thở dài không bao giờ dứt của đợi chờ, tấm tức như tiếng nấc nghẹn ngào ly biệt” [67, tr. 107]. Khi trở về quê hương, Huy phải chấp nhận một cái giá quá đắt cho quyết định của mình.
Trong truyện Nước bấc về gành, một chuyện cảm động về tình yêu giữa Sim và Mành. Sim là người Bắc, do tản cư loạn lạc, cô lạc mất bố, u với đứa em còn bế. Khi tản cư vào Nam ở với dì, cô gặp Mành. Tuy nhà nghèo nhưng Mành là chàng trai giỏi giang và đáng yêu “Tình yêu đã đến với hai mái đầu Nam – Bắc xa diệu vợi chân trời gốc bể mà lại thắm thiết như xưa đã có hẹn hò” [67, tr. 137]. Một lần, Mành đi biển gặp bão, chiếc mành bị xiêu, anh bị trôi dạt theo ghe, mọi người đều nghĩ anh đã chết. Ai cũng thương xót cho Mành, nhất là Sim. May mắn Mành vẫn sống, gặp lại Sim trong niềm mong ước đoàn tụ và hạnh phúc “Sim nghĩ đến một buổi sáng nào đó, trời cũng an lành thế này, ấm áp thế này, cùng với triệu người trở lại trên đất Bắc” [67, tr. 148].
Trong truyện Dấu nước mắt trên gối, Yên Hy Ba gửi đến người đọc thông điệp về cuộc đời người mẹ - người phụ nữ đầy nỗi nhọc nhằn nhưng rất đỗi bao dung. Cuộc đời của “má” là biểu tượng của tình yêu thương con cái, đức hy sinh và nỗi niềm thầm kín về một tình yêu thời son trẻ. Lúc làm dâu, má phải chịu đựng với “giận hờn ngoại, nội trút cả lên con ngoại”, má phải ngày đêm vất vả “trông chừng nước mắm trổ”, khi gánh nước đường xa, vì khổ quá mà “ngoại xót thương, thường thức đón má, bảo người nhà gánh thay cho má ngủ, bao giờ có nước má lại dậy gánh về” [67, tr. 204], rồi khi những đứa con bị bệnh mất, ba cũng mất thì nỗi đau ấy lại hằn thêm trên đôi vai của má, thêm bao nhiêu lo toan đè nặng lên cuộc đời người đàn bà đáng kính ấy. Trong truyện, tác giả nhiều lần nhắc đến câu “Có phải buồn đau ngày xưa đó chiều nay đã làm cho má khóc” [67, tr. 205]. Kỷ vật duy nhất má để lại trên đời chỉ là một mảnh giấy, nhưng chứa đựng tất cả những gì đau nhất nhưng đẹp nhất về tình yêu thầm kín của người mẹ: “Anh, Không thể nào được. Con tôi, các con tôi! Thôi đành… Ng. 7-3-1951” [67, tr. 213].
Tình yêu lứa đôi trong văn học Bình Thuận giai đoạn 1945 – 1975 có mấy đặc điểm đáng chú ý: Dưới ngòi bút của các tác giả là nhà văn – chiến sĩ vùng kháng chiến, tình yêu đôi lứa được lồng trong tình yêu làng xóm, trong nghĩa đồng bào. Những gian khổ đắng cay của cuộc chiến tranh làm nên vẻ đẹp tình yêu. Đó là sự anh hùng của thế hệ trẻ Bình Thuận trong chiến đấu; tình yêu gắn với niềm tin yêu mãnh liệt về tương lai đất nước (như Nam Hà). Với các tác phẩm viết trong vùng tự do, tình yêu lứa đôi được miêu tả trong cảm thức lo lắng, đau thương, sầu muộn. Tâm trạng ấy có nguyên nhân từ nỗi đau chiến tranh và từ khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu được thể hiện qua các tác phẩm của Yên Hy Ba, Nguyễn Bắc Sơn, Hoài Khanh, Huỳnh Hữu Võ.