Thực trạng phát triển

Một phần của tài liệu Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Trang 45 - 50)

Trước năm 1990, hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng còn mang nặng tính bao cấp, gắn với biện pháp quản lý hành chính, pháp lệnh. Pháp lệnh ngân hàng năm 1990, Luật ngân hàng nhà n−ớc và Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 đã có tác động tích cực tới sự phát triển của thị trường tiền tệ. Tiếp theo đó là sự ra đời của thị trường tín dụng ngắn hạn; thị trường nội tệ liên ngân hàng (năm 1993); thị tr−ờng ngoại tệ liên ngân hàng (năm 1994); thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc (năm 1995); và thị trường mở được hình thành (năm 2000).

Cùng với sự hình thành của các loại hình thị tr−ờng tiền tệ, một số công cụ trên thị trường tiền tệ Việt Nam cũng được hình thành, đó là Tín phiếu kho bạc, Tín phiếu ngân hàng nhà n−ớc, Th−ơng phiếu, Kỳ phiếu ngân hàng th−ơng mại (chứng chỉ tiền gửi).

Các thành viên tham gia hoạt động trên thị trường tiền tệ ngày càng tăng. Thời kỳ tr−ớc những năm 90 của thế kỷ XX chỉ có Ngân hàng nhà n−ớc, 2 ngân hàng thương mại quốc doanh và Kho bạc nhà nước tham gia; đến nay số lượng các thành viên tổ chức tín dụng đã gồm 6 ngân hàng thương mại quốc doanh, 50 ngân hàng th−ơng mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, 24 chi nhánh ngân hàng n−ớc ngoài, 23 công ty tài chính cổ phần, 5 Công ty tài chính thuộc Tổng công ty 91 và 8 công ty cho thuê tài chính. Tuy nhiên số l−ợng các thành viên tham gia thực sự và th−ờng xuyên trên thị tr−ờng tiền tệ còn ít, chủ yếu tập trung vào một số ngân hàng th−ơng mại quốc doanh và một số ngân hàng th−ơng mại cổ phần lớn, sự gắn kết giữa các thành viên còn lỏng lẻo.

Bên cạnh thị tr−ờng tiền tệ chính thức, thị tr−ờng ngoại tệ ngầm (thị tr−ờng ngoại tệ không chính thức) cũng phát triển. −ớc tính thị tr−ờng ngoại tệ ngầm chiếm khoảng 20% thị phần của thị tr−ờng này và th−ờng đ−ợc biểu hiện qua một số hình thức nh−: các cửa hàng kinh doanh vàng bạc đá quý

đồng thời kinh doanh mua bán ngoại tệ; chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền qua

biên giới dưới nhiều hình thức; các sạp đổi tiền dọc biên giới (dân gian đặt tên là ngân hàng ngồi xổm); các hoạt động mua bán ngoại tệ khác trong dân c−.

Hoạt động của thị trường tiền tệ ngầm có tác động tích cực như đáp ứng nhu cầu giao dịch bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân c−, các doanh nghiệp một cách nhanh chóng trong điều kiện thị tr−ờng ngoại tệ chính thức ch−a phát triển. Tuy nhiên, hoạt động của thị trường tiền tệ ngầm nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà n−ớc vì vậy làm giảm hiệu lực của việc thi hành chính sách tiền tệ, tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế bất hợp pháp nh− tham nhũng, buôn lậu và dẫn đến tình trạng chảy máu ngoại tệ.

2.1.2. Thị tr−ờng vốn

Thị trường tín dụng trung hạn và dài hạn đã có bước chuyển biến tích cực. Tỷ trọng cho vay trung hạn và dài hạn của hệ thống ngân hàng th−ơng mại đã tăng lên đáng kể. Theo báo cáo của các ngân hàng thương mại quốc doanh, tính đến ngày 31/12/2001, d− nợ trung hạn và dài hạn của các ngân hàng thương mại là 55,9 ngàn tỷ đồng, bằng 33,7% tổng dư nợ cho vay. Trong khi đó, nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại phần lớn là từ nguồn vốn ngắn hạn, quy mô nguồn vốn trung hạn và dài hạn còn hạn chế.

Ngày 28/11/1996, Chính phủ ban hành Nghị định 75/CP về việc thành lập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và ngày 11/7/1998 Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán và Quyết định 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập hai Trung tâm Giao dịch chứng khoán ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đ−ợc ban hành; đó là cơ sở pháp lý cho việc hình thành và hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam.

Sau hơn 2 năm đi vào hoạt động (tính đến 7/2002), đã có 19 loại cổ phiếu đ−ợc niêm yết trên trung tâm giao dịch với tổng giá trị vốn điều lệ là 1.016 tỷ đồng. Uỷ ban chứng khoán đã phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện

đấu thầu 22 phiên và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ với tổng giá trị là 3088,6 tỷ đồng.

Hiện nay, trên thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam có 9 công ty chứng khoán đ−ợc thành lập, trong đó bao gồm 3 công ty chứng khoán cổ phần và 6 công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán. 7/9 công ty chứng khoán đăng ký thực hiện đầy đủ 5 nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán đó là: môi giới; tự doanh; quản lý danh mục đầu t−; bảo lãnh phát hành; t− vấn đầu t− chứng khoán. Đến tháng 7/2002, số tài khoản giao dịch đ−ợc mở tại các công ty chứng khoán là 12.000, trong đó bao gồm 91 nhà đầu t− là tổ chức và 33 nhà

đầu t− n−ớc ngoài.

Các công ty chứng khoán đều đã hoạt động ổn định, có 7/8 công ty chứng khoán báo cáo lãi, tình hình tài chính nhìn chung là lành mạnh, khả

năng thanh toán đ−ợc đảm bảo. Cơ cấu doanh thu của các công ty chứng khoán đã chuyển biến theo chiều hướng tích cực, nếu như trước đây phần lớn doanh thu là từ lãi trên vốn kinh doanh (do không sử dụng hết vốn kinh doanh)

thì hiện nay chiếm phần lớn trong doanh thu là từ nghiệp vụ môi giới và tự doanh.

Trong thời gian qua, Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp quản lý thị trường khá hiệu quả, phù hợp với đặc điểm giai đoạn đầu của thị trường. Tuy nhiên, một số quyết định quản lý còn mang tính hành chính, vì vậy trong nhiều tr−ờng hợp ch−a theo kịp và điều chỉnh thị tr−ờng một cách có hiệu quả. Công tác giám sát để đảm bảo cho thị trường hoạt động một cách minh bạch ch−a có nhiều kết quả, đặc biệt là trong giám sát việc công bố thông tin của các tổ chức phát hành. Nhiều văn bản pháp lý của Uỷ ban chứng khoán nhà nước mặc dù đã được sửa đổi song vẫn còn nhiều bất cập, chưa theo kịp đòi hỏi thực tế của thị trường, cách làm vẫn theo kiểu "thử sai", không có tính dài hạn.

Nhìn chung, thị tr−ờng chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé, hoạt

động còn nhiều yếu kém, ch−a đáp ứng đ−ợc yêu cầu của nền kinh tế, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Việc phát hành và niêm yết chứng khoán trên thị tr−ờng chứng khoán bộc lộ không ít bất cập, khái quát có thể nêu lên một số điểm sau: Một là, số l−ợng các chứng khoán niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán là quá ít so với nhu cầu và so với số l−ợng các công ty cổ phần. Hai là, khối l−ợng trái phiếu chính phủ phát hành hàng năm còn thấp, th−ờng ở mức trên d−ới 2% GDP (năm 1998 là 2,39%; năm 1999 là 3,34%; năm 2000 là 2,72%), trong khi đó tại các nước trong khu vực nh− Malaixia, Thái Lan, Inđônexia tỷ lệ d− nợ của trái phiếu chính phủ chiếm từ 20-30% GDP. Ba là, các trái phiếu chính phủ chủ yếu là ngắn hạn và trung hạn, ch−a đ−ợc chuẩn hoá về mệnh giá, thời gian đáo hạn, ngày phát hành...

Một số nghiệp vụ nh− bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu t−, t−

vấn đầu t− chứng khoán của các công ty chứng khoán ch−a phát triển, thậm chí ở một số công ty chứng khoán các nghiệp vụ này không thực hiện đ−ợc.

Các công ty chứng khoán đang phải đối mặt với tình trạng không tìm đ−ợc đầu ra cho mình trong khi quy mô thị tr−ờng còn nhỏ bé, dễ bị tổn th−ơng.

2.1.3. Định h−ớng tiếp tục phát triển

Đã quá nửa nhiệm kỳ nhưng định hướng do Đại hội lần thứ IX của Đảng

đề ra vẫn ch−a đ−ợc thực hiện bao nhiêu, nếu không muốn nói là dẫm chân tại chỗ. Vì vậy trong thời gian tới, việc phát triển nhanh thị trường vốn, đặc biệt là thị tr−ờng vốn trung hạn và dài hạn, phải đ−ợc coi là nhiệm vụ cấp bách. Công cụ quan trọng nhất giúp huy động vốn trung và dài hạn là thị trường chứng khoán cùng với các bộ phận khác của thị trường tài chính hoạt động đồng bộ,

“cộng sinh” với nó nh− thị tr−ờng cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ; các công ty tài chính; các quỹ đầu t−; các quỹ và các công ty bảo hiểm v.v... Thời gian qua, đặc biệt là hai, ba năm trở lại đây, thị trường trái phiếu chính phủ hoạt động “quá công suất” với thành phần tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ qua Trung tâm giao dịch chứng khoán bị giới hạn trong số các thành viên đã được chấp thuận và trên thực tế các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn đóng vai trò chính (trên thực tế, hầu hết số trái phiếu chính

phủ đ−ợc các tổ chức bảo lãnh phát hành giữ lại nh− một phần đầu t− của mình chứ không bán ra công chúng. Đến nay có 20 đơn vị đ−ợc công nhận là thành viên bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ, gồm 14 ngân hàng th−ơng mại và 6 công ty chứng khoán); trong khi đó, các yếu tố quan trọng nhất cho hoạt

động của thị trường chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu công ty lại ngừng trệ do việc cổ phần hoá DNNN chững lại, cho nên hoạt động của thị trường chứng khoán tẻ nhạt, không phát huy đ−ợc khả năng huy động vốn trung và dài hạn của nó cũng nh− không thực hiện đ−ợc mục tiêu huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách cho đầu t− phát triển.

Đối chiếu với Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng: “Chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay nhà n−ớc mang tính hành chính sang cho vay theo cơ

chế thị tr−ờng, xoá bỏ bao cấp thông qua tín dụng đầu t−...” (trang 103) thì

việc tăng tín dụng đầu t− từ vốn có nguồn gốc ngân sách trong hai, ba năm qua là trái với tinh thần đại hội. Để khắc phục tình trạng trên, nhiệm vụ cổ phần hoá DNNN đề ra qua mấy kỳ Đại hội cần đ−ợc thực hiện nghiêm túc. Thị tr−ờng vốn chỉ có thể phát triển nhanh và bền vững thông qua các công cụ của thị tr−ờng. Với tình hình n−ớc ta hiện nay, bên cạnh việc đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, thì việc thí điểm tiến tới cho phép cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu t− n−ớc ngoài, bán cổ phần cho nhà đầu t− n−ớc ngoài, giảm mạnh các kênh huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ cho mục tiêu tín dụng ưu đãi của Nhà nước cho các doanh nghiệp, hạn chế sự bành trướng hoạt

động của Quỹ hỗ trợ phát triển là việc làm hết sức cần thiết cần đ−ợc đẩy mạnh. Cần tăng cơ hội cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng th−ơng mại nhà n−ớc và Quỹ hỗ trợ phát triển,

đồng thời tăng thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài vì đây là những nguồn vốn “có chủ” đích thực nên thường đem lại hiệu quả cao và ít bị thất thoát, tiêu cùc.

Đối với thị tr−ờng tiền tệ thì bức súc nhất hiện nay là sự bất cập của hệ thống ngân hàng thương mại trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế dẫn đến tồn tại và phát triển thị tr−ờng ngầm ngoài ngân hàng và tình trạng lãi suất cao kéo dài. Để có thể “kiện toàn các ngân hàng th−ơng mại nhà n−ớc thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín,

đủ sức cạnh tranh trên thị trường” như nêu tại nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng (Văn kiện Đại hội IX, trang 104), cần tích cực giải quyết “nợ xấu”

cho các ngân hàng th−ơng mại quốc doanh, giảm dần, tiến tới bỏ cho vay theo chỉ định của Chính phủ (nguyên nhân dẫn đến nợ xấu) và tháo gỡ các vướng mắc xung quanh việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. Bên cạnh việc giảm can thiệp hành chính của Ngân hàng nhà nước vào hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh, cần đề cao vai trò của Ngân hàng nhà nước trong việc giám sát hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ nh− chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá hối đoái, kiểm soát lạm phát. Cần tiếp tục chủ trương tự do hoá lãi suất, đồng thời điều chỉnh kịp thời hơn tỷ giá hối đoái theo tín hiệu thị tr−ờng nhằm hạn chế nhập siêu và khuyến khích xuất khẩu. Một vấn đề nổi cộm đã đ−ợc nhắc đến từ lâu

nh−ng ch−a đ−ợc nhìn nhận một cách nghiêm túc là tình trạng thanh toán bằng tiền mặt. Cần có bước đi cụ thể để khắc phục tình trạng này, ít nhất là trong thanh toán th−ơng mại giữa các doanh nghiệp và trong các dự án có mức chi tiêu lớn, trong việc chi tiêu của các đơn vị thụ hưởng ngân sách. Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt không những giảm bớt chi phí trong lưu thông tiền tệ mà còn giúp ngăn ngừa tham nhũng, chi tiêu sai.

Một vấn đề tuy ch−a phải cấp bách trong một, hai năm tới nh−ng quan hệ đến nhiệm vụ nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của các ngân hàng thương mại n−ớc ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế và chuẩn bị tham gia WTO là cổ phần hoá một, hai ngân hàng trong số các ngân hàng th−ơng mại nhà n−ớc hiện có thay vì hàng năm bổ sung vốn ngân sách cho các ngân hàng này nh−

hiện nay. Cần có lộ trình cho việc này ngay từ bây giờ.

3. Thị trường bất động sản

Thị trường bất động sản (BĐS) là một trong những thị trường rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Việc phát triển thị trường BĐS có tác động

đến tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh như: tạo ra những kích thích cho

đầu tư vào đất đai, nhà xưởng; chuyển BĐS thành tài sản tài chính để phát triÓn kinh tÕ...

Đặc điểm chung nhất của các loại BĐS là gắn liền với đất. Tuy nhiên không phải tất cả các loại BĐS đều là BĐS hàng hoá và tham gia vào thị tr−ờng BĐS. Muốn trở thành hàng hoá, BĐS phải có chủ sở hữu hay chủ sử dụng cụ thể, phải đ−ợc pháp luật cho phép và phải có đủ điều kiện để giao dịch.

ở các nước có chế độ đa sở hữu về đất thì đất là một loại BĐS hàng hoá.

ở nước ta đất thuộc sở hữu toàn dân và pháp luật không cho phép mua bán đất, do đó đất không phải là hàng hoá, chỉ quyền sử dụng (QSD) đất mới đ−ợc công nhận là hàng hoá. Nh− vậy, không giống nh− ở nhiều n−ớc khác, ở n−ớc ta không có thị trường đất, mà chỉ có thị trường QSD đất.

Do pháp luật ở nước ta chưa quy định danh mục các BĐS cụ thể, nên chưa thể xác định rõ ràng các loại thị trường BĐS. Đến nay, khi nói đến thị trường BĐS, mọi người thường hiểu đó là thị trường QSD đất và thị trường nhà (nhà ở, văn phòng, khách sạn, nhà hàng...).

Riêng về thị trường QSD đất có nhiều cách phân loại khác nhau. Thông th−ờng ng−ời ta phân chia thị tr−ờng này thành:

- Ba cấp thị tr−ờng: I, II và III. Thị tr−ờng cấp I là thị tr−ờng ng−ời sở hữu

đất chuyển giao QSD đất cho người khác; thị trường này hoàn toàn do Nhà nước khống chế. Thị trường cấp II là thị trường người được cấp QSD đất tái chuyển nhượng QSD đất. Trong thị trường này, cả người bán và người mua

đều không phải là người sở hữu đất. Họ chỉ tham gia thị trường mua bán QSD

đất. Thị trường cấp III là thị trường người sử dụng đất cho thuê QSD đất hoặc cho thuê BĐS nằm trên đất mà họ có quyền sử dụng.

- Năm loại thị trường ứng với 5 loại đất: thị trường QSD đất nông nghiệp;

thị trường QSD đất lâm nghiệp; thị trường QSD đất ở nông thôn; thị trường QSD đất ở thành thị; và thị trường QSD đất chuyên dùng.

- Ba loại thị trường căn cứ vào tính chất sử dụng đất là: thị trường QSD

đất nông nghiệp, bao gồm cả đất lâm nghiệp, đất hoặc mặt nước ao, hồ nuôi trồng thuỷ sản; thị trường QSD đất ở, gồm đất ở nông thôn và đất ở đô thị; và thị trường QSD đất đối với đất làm mặt bằng cho sản xuất, kinh doanh như

mặt bằng làm nhà x−ởng, kho tàng, khách sạn, văn phòng, nơi vui chơi, giải trÝ...

- Hai loại thị trường căn cứ vào mục tiêu sử dụng đất là thị trường QSD

đất nông nghiệp và thị trường QSD đất phi nông nghiệp.

- Hai loại thị tr−ờng mang tính tổng hợp hơn là thị tr−ờng sơ cấp (thị tr−ờng cấp I) và thị tr−ờng thứ cấp (thị tr−ờng cấp II và III nêu trên); thị tr−ờng thứ cấp lại gồm 5 thị trường ứng với 5 loại đất cụ thể nêu trên. Đây là cách phân chia tương đối phổ biến hiện nay ở nước ta.

Nhìn chung, các cách phân loại thị trường chỉ mang tính tương đối. Điều này diễn ra không chỉ ở n−ớc ta mà ở các n−ớc khác cũng t−ơng tự.

Việc phát triển thị trường BĐS được đề cập đến từ Đại hội lần thứ VIII và

đ−ợc xác định rõ hơn trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng: "Hình thành và phát triển thị trường BĐS, bao gồm cả QSD đất theo quy định của pháp luật; từng b−ớc mở thị tr−ờng BĐS cho ng−ời Việt Nam ở n−ớc ngoài và ng−ời n−ớc ngoài tham gia đầu t−" (Văn kiện Đại hội IX, trang 101). Gần đây (tháng 3 năm 2003), Hội nghị trung ương 7 Khoá IX đã tiến thêm một bước khi xác định "quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc biệt" và "chủ động phát triển vững chắc thị tr−ờng BĐS..., với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế...;

không tách rời thị trường QSD đất và các tài sản gắn liền với đất; chống đầu cơ đất đai" (Văn kiện Hội nghị trung −ơng 7 Khoá IX, trang 61-62).

Đ−ờng lối, chủ tr−ơng của Đảng đang từng b−ớc đ−ợc cụ thể hoá mà biểu hiện rõ nhất là việc sửa đổi Luật đất đai (có thể đ−ợc Quốc hội thông qua vào kỳ họp cuối năm 2003).

Một phần của tài liệu Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Trang 45 - 50)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(153 trang)