Nghiệm pháp đi bộ 6 phút

Một phần của tài liệu Đánh giá hiệu quả của can thiệp nội mạch qua da ở bệnh nhân bị bệnh động mạch chi dưới mạn tính bằng nghiệm pháp đi bộ 6 phút (Trang 40 - 47)

Để đánh giá hiệu quả điều trị BĐMCD, người ta áp dụng nhiều biện pháp thăm dò cận lâm sàng như: Siêu âm Doppler mạch, chụp CLVT, chụp DSA…Đánh giá hiệu quả điều trị trên lâm sàng như: giảm triệu chứng đau cách hồi, cải thiện khả năng đi lại của bệnh nhân, người ta sử dụng các nghiệm pháp như: nghiệm pháp gắng sức trên thảm chạy, NPĐB6P…

Nghiệm pháp đi bộ là một trắc nghiệm lâm sàng lượng giá hoạt động chức năng một cách khách quan được Balke B phát minh và áp dụng vào năm 1960. Lúc đầu, nghiệm pháp này được thực hiện để đánh giá khả năng gắng sức của bệnh nhân bằng cách đo khoảng cách đi bộ trong 12 phút. Nhưng sau khi áp dụng vào thực tế một thời gian, người ta thấy rằng khi nghiệm pháp này thực hiện với thời gian dài làm bệnh nhân mệt mỏi quá mức và không thích hợp. Vì vậy năm 1982 Butland R.J.A. và CS đã đưa ra nghiệm pháp đi bộ có khả năng đánh giá tương tự như nghiệm pháp đi bộ 12 phút, nhưng thời gian là 6 phút nên bệnh nhân dễ thực hiện, đồng thời nó cũng phản ánh tốt khả năng thích nghi với hoạt động hàng ngày của bệnh nhân.

* Khái niệm: NPĐB6P là một trắc nghiệm đánh giá hoạt động chức năng một cách khách quan bằng cách đo lường quãng đường đi được trong khoảng thời gian 6 phút của người thực hiện trắc nghiệm này.

Năm 2005, Hiệp hội Tim mạch Mỹ hướng dẫn thực hành lâm sàng tim mạch cho BĐMCD đã đề nghị dùng nghiệm pháp 6 phút đi bộ để đo lường sức chịu đựng đi bộ ở những người bị bệnh cũng như đánh giá khách quan những thay đổi trong hoạt động chức năng theo thời gian ở những người bị BĐMCD. Kể từ đó, bằng chứng mới đã được tích lũy chứng minh tính hợp lệ của thử nghiệm đi bộ 6 phút là một biện pháp khách quan đánh giá hiệu suất đi bộ ở bệnh nhân bị BĐMCD [60]. Bệnh nhân có BĐMCD xuất hiện tình trạng thiếu máu cục bộ ở cơ bắp chân khi hoạt động đi bộ, nhu cầu trao đổi chất vượt quá nguồn cung cấp ôxy và tái tưới máu. Hiện tượng thiếu máu cục bộ xảy ra phản ứng ôxy hóa tạo ra các hóa chất trung gian làm giảm chức năng của các sợi cơ và gây đau. Vì vậy, khả năng đi bộ bị suy giảm ở những người BĐMCD liên quan đến tình trạng tưới máu giảm do xơ vữa động mạch và tổn thương cơ xương do thiếu máu cục bộ. Một mục tiêu điều trị quan trọng ở những BĐMCD là cải thiện hiệu suất đi bộ và ngăn ngừa tính mất vận động của chi, duy trì khả năng tiếp tục sống độc lập trong cộng đồng [60],[61].

* Các nghiên cứu về NPĐB6P ở bệnh nhân bị BĐMCD

Các bằng chứng nghiên cứu cho thấy thử nghiệm đi bộ 6 phút không bị ảnh hưởng bởi một hiệu ứng được lặp đi lặp lại ở bệnh nhân BĐMCD. Trong nghiên cứu McDermott và cộng sự đã cho thấy thử nghiệm đi bộ 6 phút có độ tin cậy chặt chẽ trong việc kiểm tra, kiểm tra lại (hệ số tương quan là 0,9 với p < 0,001) [61].

Các thử nghiệm đi bộ 6 phút là một biện pháp tin cậy nhằm xác nhận độ bền đi bộ mà không cần phải có thiết bị phức tạp hay đào tạo nhiều. Trong số những người bị bệnh BĐMCD cải thiện 6 phút đi bộ nhằm đáp ứng với các phương pháp điều trị, dự đoán tỷ lệ mất di động và tỷ lệ tử vong. Một nghiên cứu trong hai năm với 460 bệnh nhân bị bệnh BĐMCD trong nhóm WALCS cho thấy có tỷ lệ cao hơn đáng kể ở những người có sự suy giảm lớn trong hoạt động đi bộ 6 phút ở tất cả các nguyên nhân tử vong, tử vong tim mạch và mất tính di động so với những người có suy giảm ít hơn trong 6 phút đi bộ [62].

Nghiệm pháp đi bộ 6 phút có một số ưu điểm như: dễ thực hiện, an toàn, dung nạp tốt và phản ánh tốt hơn hoạt động thường ngày của bệnh nhân so với các nghiệm pháp đi bộ khác. Nghiệm pháp đi bộ được tiến hành trên một hành lang dài 30 mét (được đánh dấu mỗi 3 mét) trong 6 phút với trạng thái thoải mái và tốc độ mà bệnh nhân sử dụng hàng ngày. Trong trường hợp những bệnh nhân bị bệnh BĐMCD xuất hiện đau chân buộc họ phải dừng lại trong thời gian thử nghiệm thì thời gian đo vẫn được tiếp tục tính. Kết quả thử nghiệm bao gồm tổng cộng các khoảng cách được tính bằng mét [20].

Trong một nghiên cứu trên 109 người (61 nữ) khỏe mạnh khoảng cách đi bộ 6 phút trung bình là 628m (nam) (trung bình 549 - 900m) và 643m (nữ) (trung bình 479 - 816m) [63].

Theo Enright P.L. và CS (1998) khi nghiên cứu trên 117 nam và 173 nữ giới khỏe mạnh, tuổi từ 40-80 thấy KCĐB6P trung bình ở nam giới là 576m; ở nữ giới là 494m. Cũng theo Enright P.L khi nghiên cứu

NPĐB6P ở người trưởng thành khỏe mạnh, thấy rằng: giới, tuổi, cân nặng, chiều cao có ảnh hưởng đến kết quả của trắc nghiệm và đã đưa ra công thức tính quãng đường đi được của NPĐB6P như sau [64].

Nam: KCĐB6P = [7.57 x Chiều cao (cm)] - (5.02 x Tuổi) - [1.76 x cân nặng (kg)] - 309m Nữ: KCĐB6P = [2.11 x Chiều cao(cm)] - (5.78 x Tuổi) - [2.29 x cân nặng (kg)] + 667m Hoặc theo chỉ số khối của cơ thể (BMI, đơn vị kg/m2) có công thức:

+ Nam: KCĐB6P = 1140m - (5.61 x BMI) - (6.94 x Tuổi) + Nữ: KCĐB6P = 1017m - (6.24 x BMI) - (5.83 x Tuổi)

Theo Troosters T.và CS (1999), KCĐB6P ở người khỏe là 631 ± 93m.

Tác giả đưa ra công thức tính KCĐB6P như sau [65]:

KCĐB6P = 218+ [5,14 x Chiều cao (cm)] - (5,32 x Tuổi) - [1,8 x Cân nặng (kg)] + (5131 x Giới) (trong đó: giới: Nam = 1; Nữ = 0)

Ở Việt Nam, một nghiên cứu tại ĐH Y khoa Huế, Bệnh viện TW Huế (2007) về NPĐB6P cho thấy: giá trị của quãng đường đi bình thường của NPĐB6P ở người khỏe mạnh ở độ tuổi 18-60 là (388,29 ± 78,96m), có sự khác biệt giữa nam (430,29 ± 52,98m) và nữ (370,29 ± 58,16m).

Trong nghiên cứu của Pereira DA và cộng sự đã cho thấy NPĐB6P là những thử nghiệm đi bộ tin cậy ở bệnh nhân bị BĐMCD.

Khi nghiên cứu hiệu quả của tập thể dục có giám sát ở bệnh nhân BĐMCD, McDermott và cộng sự đã cho thấy mối tương quan giữa sự thay đổi ABI và khoảng cách đi bộ 6 phút sau can thiệp nội mạch chi dưới là 0,0528 (p < 0,001) [66].

Nghiên cứu của Joakim Nordanstig và cộng sự đã cho thấy khoảng cách đi bộ 6 phút có tương quan chặt chẽ tới khả năng đi bộ ngoài trời và chất lượng can thiệp y tế của những bệnh nhân bị BĐMCD [67].

Trong nghiên cứu của tác giả Sakir Arslan và cộng sự về những bệnh nhân bị BĐMCD đã được đặt stent động mạch chi dưới cho thấy: khoảng

cách đi bộ 6 phút trước can thiệp là 84,71 ± 62m, giá trị này sau can thiệp thành công đã tăng lên 348 ± 60m [68].

Một nghiên cứu của Montgomery PS và cộng sự ở những bệnh nhân bị BĐMCD cho thấy, khoảng cách đi bộ 6 phút trung bình là 350 ± 78m. Ông đưa ra kêt luận: NPĐB6P có độ tin cậy cao, có liên quan huyết động học và mức độ hoạt động chức năng ở bệnh nhân BĐMCD [69].

Trong nghiên cứu của Dixit S và cộng sự, khoảng cách đi bộ 6 phút trên những bệnh nhân bị BĐMCD được tính trung bình là 269,52 ± 158,56m [70].

Một thử nghiệm của Bergland A và cộng sự trên bệnh nhân bị BĐMCD đã được can thiệp cho thấy: sự cải thiện trung bình từ lúc đầu đến 3 tháng đối với các thử nghiệm đi bộ 6 phút là 66m so với nhóm chứng là 45m [71].

Trong nghiên cứu của S Disit về đánh giá NPĐB6P ở những bệnh nhân có BĐMCD cho thấy: sự khởi đầu của triệu chứng đau ở chân xảy ra ở nhóm nghiên cứu khi thực hiện nghiệm pháp là (2,21 ± 1,59 giây), thời gian xuất hiện triệu chứng đau tối đa (phải dừng lại) với thời gian là (2,61 ± 1,45) phút.

Khoảng cách đi bộ đạt được là (269,5 ± 158,5 m) [72].

Một nghiên cứu của Bittner V và cộng sự khi nghiên cứu trên 2281 người có độ tuổi trên 68 cho thấy khoảng cách đi bộ trung bình khi thực hiện NPĐB6P là 344m [73]. Cũng theo tác giả thì phục hồi chức năng tim mạch ở bệnh nhân có các bệnh tim mạch khác nhau đã làm cải thiện được quãng đường đi được bằng NPĐB6P là 170m sau điều trị, tăng hơn (15%) so với trước điều trị.

Nghiên cứu của Kalthryn Domanchuk và cộng sự cho thấy so với các thử nghiệm đi bộ khác, thử nghiệm đi bộ 6 phút có tương quan chặt chẽ hơn với các bước thực hiện trong cuộc sống hàng ngày mà không bị ảnh hưởng bởi các vấn đề về cân bằng và lo lắng, đặc biệt ở những bệnh nhân lớn tuổi và phụ nữ bị BĐMCD [74].

Khi thực hiện nghiên cứu NPĐB6P ở những bệnh nhân có triệu chứng đau cách hồi, Da Cunha-Filho và cộng sự đã đưa ra kết luận: NPĐB6P là thử nghiệm đi bộ đáng tin cậy cho bệnh nhân có triệu chứng đau cách hồi [75].

Tiến sĩ David T Nash (Trung tâm Y khoa Đại học New York, Syracuse) cho rằng: "NPĐB6P là một công cụ tiện lợi giúp đánh giá các yếu tố nguy cơ tim mạch của bệnh nhân và giúp đề ra biện pháp làm giảm yếu tố nguy cơ tim mạch cho từng bệnh nhân dựa trên biện pháp thay đổi lối sống, chế độ ăn uống, hoạt động thể lực và kiểm soát mức huyết áp và nồng độ lipid máu” [76].

Theo Beatty, đây là một nghiệm pháp đơn giản có thể dùng để khuyến khích bệnh nhân cải thiện hoạt động thể lực của họ, là nghiệm pháp dễ tiếp cận với bệnh nhân, dễ hiểu và không cần chuẩn bị trước [77].

Theo nghiên cứu của McDermott và cộng sự cho thấy sử dụng NPĐB6P:

một sự thay đổi 20m được định nghĩa như là một sự thay đổi có ý nghĩa nhỏ, sự thay đổi của 50m được định nghĩa như là sự thay đổi có ý nghĩa lớn.

Những định nghĩa thay đổi có ý nghĩa lâm sàng trong 6 phút đi bộ có thể được sử dụng để giải thích kết quả của các thử nghiệm lâm sàng khi sử dụng 6 phút đi bộ là một kết quả [78].

Theo Rasekaba khi nghiên cứu về NPĐB6P ông cho rằng: Một sự thay đổi trong khoảng cách đi bộ hơn 50m là có ý nghĩa lâm sàng trong hầu hết các tình trạng bệnh [79].

Chỉ định hàng đầu của nghiệm pháp đi bộ 6 phút nhằm đánh giá sự cải thiện về triệu chứng sau điều trị ở những bệnh nhân có bệnh lý tim mạch, hô hấp mức độ trung bình đến nặng. Ngoài ra có thể ứng dụng để đánh giá khả năng hoạt động thể lực tại một thời điểm, cũng như dự báo khả năng mắc bệnh và tỷ lệ tử vong trong các nghiên cứu dịch tễ học. Một trong những chỉ định đó

là: đánh giá sự cải thiện về triệu chứng lâm sàng tại thời điểm sau điều trị được áp dụng cho những bệnh nhân điều trị bệnh mạch máu ngoại biên.

Một số chống chỉ định tương đối cần được lưu ý: Nhịp tim lúc nghỉ ≥ 120 lần/ phút. Huyết áp tâm thu ≥ 180 mmHg. Huyết áp tâm trương ≥ 100 mmHg. Bệnh nhân không có khả năng hợp tác thực hiện NPĐB6P, bệnh lý cơ xương khớp mạn tính ảnh hưởng đến vận động. Bất đồng ngôn ngữ, thính lực, thị lực kém.

* Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả của NPĐB6P

+ Các yếu tố có thể làm giảm KCĐB6P: Ở những người thấp, nhiều tuổi, nặng cân, phụ nữ, những người có nhận thức kém, hành lang thực hiện nghiệm pháp ngắn (phải quay nhiều lần), bệnh nhân bị mắc các bệnh lý cơ xương khớp (viêm khớp, tổn thương khớp gối, cổ chân, ngón chân…).

+ Các yếu tố có thể làm tăng KCĐB6P: Những người cao (chân dài), nam giới, những người có quyết tâm cao, bệnh nhân đã từng thực hiện nghiệm pháp trước đó.

* Phiên giải kết quả

Nghiệm pháp đi bộ 6 phút được chỉ định ở bệnh nhân tại thời điểm trước và sau can thiệp điều trị, vì vậy câu hỏi đầu tiên cần trả lời sau hai lần thực hiện nghiệm pháp là bệnh nhân có cải thiện rõ rệt về mặt lâm sàng không?

Trong điều kiện nghiệm pháp được thực hiện đúng tiêu chuẩn, do một kỹ thuật viên hướng dẫn cho thấy nghiệm pháp có khả năng phản ánh khá chính xác sự thay đổi về triệu chứng cơ năng. Cho đến khởi điểm hiện tại các khuyến cáo vẫn nhất trí đánh giá dựa vào giá trị tuyệt đối của quãng đường thay đổi trước và sau điều trị để phản ánh hiệu quả điều trị.

Một phần của tài liệu Đánh giá hiệu quả của can thiệp nội mạch qua da ở bệnh nhân bị bệnh động mạch chi dưới mạn tính bằng nghiệm pháp đi bộ 6 phút (Trang 40 - 47)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(132 trang)
w