Yếu tố nguy cơ

Một phần của tài liệu Đánh giá hiệu quả của can thiệp nội mạch qua da ở bệnh nhân bị bệnh động mạch chi dưới mạn tính bằng nghiệm pháp đi bộ 6 phút (Trang 89 - 95)

4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

4.1.2. Yếu tố nguy cơ

* Tăng huyết áp

Trong nghiên cứu của chúng tôi, số người hiện bị THA chiếm 73,33%, trong số này có trên một nửa bệnh nhân điều trị không thường xuyên. Tỉ lệ này cao hơn của các tác giả Gohil [95] và Sakir Arslan [68] lần lượt là 67% và

70% và gần tương đương với kết quả nghiên cứu của tác giả Thomas P.

Erlinger là: 73,6%.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, những bệnh nhân THA được điều trị thuốc đều, kiểm soát HA tốt thì hình thái tổn thương thường gặp TASC A, B, giai đoạn thiếu máu chi thuộc nhóm Fontain III nhiều hơn Fontain IV.

Ngược lại, nhóm không điều trị thuốc hạ áp, hoặc điều trị không thường xuyên, HA lúc vào viện ở mức cao, thì tổn thương phức tạp và giai đoạn thiếu máu chi ở mức nặng hơn Fontain IV.

THA có mối liên quan chặt chẽ với bệnh lý BĐMCD (Selvin và Erlinger 2004) như trong dữ liệu Điều tra y tế và dinh dưỡng quốc gia (NHANES). Trong nghiên cứu này, 2174 người tham gia > 40 tuổi từ năm 1999-2000 đã thu nhận: BĐMCD (ABI < 0,9 trong cả hai chân) là phổ biến ở 4,3% bệnh nhân. Trong số những người > 70 tuổi, tỷ lệ là 14,5%.

Khi phân tích mối tương quan giữa HA, mức độ nghiêm trọng và khả năng chức năng của những bệnh nhân BĐMCD đã được quan sát thấy rằng HATT đã có một mối tương quan có ý nghĩa thống kê với các ABI (r = -0,36, p = 0,003) và với tổng quãng đường di chuyển tại NPĐB6P (r = -0,31 , p = 0,006) [96].

Điều này cho thấy cần phải đẩy mạnh công tác quản lý và tư vấn sức khoẻ ở các tuyến y tế cơ sở nhằm sớm phát hiện THA trong cộng đồng dân cư, đặc biệt là cộng đồng những người có yếu tố nguy cơ cao để điều trị sớm, điều trị đúng tránh các biến cố do THA gây ra, trong đó có bệnh động mạch chi dưới mạn tính.

* Đái tháo đường

Ở nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ bệnh nhân ĐTĐ chiếm 30%, trong đó có những bệnh nhân khi đi khám bệnh lý BĐMNB mới phát hiện ra ĐTĐ. Có thể giải thích tình trạng này là do không được khám sức khỏe định kì của

người bệnh, đặc biệt là ở vùng nông thôn, do vậy, đến khi phát hiện ĐTĐ đã là thời điểm phát hiện các biến chứng khác. Khi phân tích mối tương quan giữa ĐTĐ và KCĐB6P, mặc dù khoảng cách đi bộ 6 phút ở những người bị bệnh ĐTĐ ngắn hơn so với người không bị ĐTĐ, nhưng chúng tôi chưa tìm được mối liên quan có ý nghĩa thống kê.

Nghiên cứu về tần suất mắc bệnh động mạch ngoại biên tiến hành tại Mỹ năm 2006, tác giả E. Selvin và Thomas P. Erlinger khi nghiên cứu 9000 bệnh nhân cũng cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh động mạch ngoại biên ở nhóm đái tháo đường cao hơn 3 lần so với nhóm không đái tháo đường [97]. Qua đó cho thấy đái tháo đường là một yếu tố nguy cơ cao của bệnh động mạch ngoại biên.

ĐTĐ là một trong những yếu tố nguy cơ chính của bệnh động mạch chi dưới. ĐTĐ làm tăng nguy cơ mắc bệnh động mạch chi dưới lên gấp 4 lần so với những BN không có ĐTĐ [43]. ĐTĐ làm cho BĐMCD trầm trọng hơn, vì tổn thương động mạch hay gặp trong ĐTĐ là tổn thương lan tỏa, vôi hóa nhiều, tổn thương hay gặp ở ngọn chi hơn là gốc chi. Cũng chính vì những tổn thương này, nên khả năng can thiệp ở những bệnh nhân ĐTĐ bị hạn chế một phần, do vùng mạch phía xa không còn. Ngoài tổn thương mạch máu, ĐTĐ làm trầm trọng hơn BĐMCD do làm tổn thương thần kinh và tăng nguy cơ bị nhiễm trùng chi bị hoại tử.

ĐTĐ cũng là một trong những yếu tố dự báo mạnh mẽ nhất cho BĐMCD và các biến chứng liên quan của nó bao gồm tỷ lệ tử vong cao hơn và cắt cụt; sau này được dự đoán bởi sự hiện diện của bệnh thần kinh, bệnh võng mạc, ABI thấp, và giới tính nam. Trong một phân tích cắt ngang ở 4153 người lớn tại Hy Lạp của Athyros et al năm 2004, tỷ lệ bệnh mạch máu ngoại biên là 1,94 (95% CI 1,35-2,47) cho những bệnh nhân có hội chứng chuyển

hóa, 3,04 (95% CI 1,98-4,11) cho bệnh nhân có hội chứng chuyển hóa và bệnh tiểu đường [98].

* Hút thuốc.

Tỉ lệ hút thuốc trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi là 60% tổng số bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân có tiền sử hút thuốc ở nhóm bệnh nhân của chúng tôi cao hơn so với kết quả của một số tác giả khác: T. Maca và cộng sự (40%) [34], Annette Lvà cộng sự (58,6%) [99], E. Selvin và Thomas P.

Erlinger (55,4%) [97].

Các nghiên cứu dịch tễ trên cỡ mẫu lớn như của Bowlin 1994 [100] và của Meijer 1998 [101] cho thấy, hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ được quan tâm hàng đầu ở bệnh nhân có biểu hiện thiếu máu chi dưới và làm tăng nguy cơ mắc bệnh động mạch ngoại biên lên từ 2-6 lần, tăng biểu hiện triệu chứng lâm sàng lên từ 3-10 lần. Ngoài ra, hút thuốc là còn là yếu tố tiên lượng trong quá trình điều trị. Theo nghiên cứu của Shamma 2003 trên tổng số 131 bệnh nhân BĐMCD [102] hút thuốc lá là yếu tố dự báo độc lập liên quan đến điều trị tái thông động mạch chi dưới.

Hút thuốc là một yếu tố nguy cơ mạnh mẽ để thúc đẩy bệnh lý bệnh động mạch ngoại biên, nó làm rối loạn chức năng nội mô, thay đổi chuyển hóa lipid và đông máu (Lu và Creager 2004). Hút thuốc còn làm gia tăng các bệnh lý tim mạch như bệnh mạch vành, mạch não, mạch thận.... đi kèm với bệnh lý BĐMCD do đó càng làm tăng nguy cơ đối với những đối tượng bệnh nhân này. Nghiên cứu trên 1.592 người đàn ông và phụ nữ từ 55-74 tuổi được lựa chọn ngẫu nhiên từ 11 trung tâm Edinburgh, Scotland trong 5 năm: Các tỷ lệ mắc bệnh lý động mạch ngoại biên và động mạch vành lần lượt là 5,1% và 11,1%. Với liều lượng 25 điếu /ngày hoặc nhiều hơn sẽ làm tăng tỷ lệ tỷ lệ của bệnh lý động mạch ngoại biên lên 7,3 lần (95% CI 4,2-12,8) [98].

Liên quan giữa khoảng cách đi bộ 6 phút và hút thuốc ở nhưng bệnh nhân bị BĐMCD, nghiên cứu của Cahan MA trên 415 bệnh nhân có tuổi từ 42 - 88 đã chỉ ra rằng: khoảng cách đi bộ 6 phút là thước đo nhậy cảm để phát hiện sự khác biệt giữa hút thuốc và không hút thuốc của bệnh nhân có BĐMCD (người không hút thuốc 388±13m, người hút thuốc hiện tại 359±6m và người từng hút thuốc 368±6m). Hơn nữa, sự khác biệt của nhóm trong 6 phút khoảng cách đi bộ được giải thích sự khác biệt bởi độ nghiêm trọng của bệnh lý và mức độ hoạt động thể chất của người bệnh [103]. Khi phân tích mối tương quan giữa hút thuốc và KCĐB6P trong nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, mặc dù khoảng cách đi bộ 6 phút ở những người hút thuốc ngắn hơn so với người không hút, nhưng chưa tìm được mối liên quan có ý nghĩa thống kê.

Các nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rằng hút thuốc lá là một yếu tố tiên lượng độc lập cho nguy cơ cắt cụt sau tái tưới máu [22]. Như vậy trước mỗi BN có tiền sử hút thuốc lá, bác sĩ điều trị cần có thái độ tích cực hơn trong việc điều trị BĐMCD và bệnh lý xơ vữa toàn thân nói chung.

* Rối loạn mỡ máu

Trong phần tổng quan đã trình bày, cơ chế hình thành mảng vữa xơ trong đó có sự tích tụ các cholesterol dư thừa sẽ góp phần vào bước hình thành ban đầu của các mảng vữa xơ cũng như quá trình tiến triển sau này.

Nghiên cứu của chúng tôi, số người hiện bị rối loạn mỡ máu chiếm 26,6%, kết quả này thấp hơn so với các tác giả nước ngoài. Khi nghiên cứu về tỷ lệ mắc bệnh động mạch chi dưới ở quần thể lớn người dân trên 40 tuổi (9000 người) tại Mỹ năm 1999-2000, tác giả Elizabeth Selvin và Thomas P. Erlinger nhận thấy số bệnh nhân bị BĐMCD có mức Cholesterol toàn phần tăng là trên 60%

[97]. Tương tự như vậy, tác giả T. Maca cũng có tỷ lệ bệnh nhân bị tăng cholesterol toàn phần là 66% [34] khi nghiên cứu 700 bệnh nhân BĐMCD.

Trong các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng: rối loạn lipid máu cũng là yếu tố nguy cơ đáng kể cho bệnh lý bệnh động mạch ngoại biên. Tăng cholesterol máu có tính gia đình làm tăng sự phổ biến của bệnh lý bệnh động mạch chi dưới từ 5 đến 10 lần so với các đối tượng không tăng cholesterol máu và điều trị với statin làm giảm tỷ lệ thời gian đau cách hồi và tăng khoảng cách đi bộ [4]. Do số lượng bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi còn ít nên khi kiểm định mối tương quan giữa rối loạn mỡ máu và KCĐB6P, mặc dù khoảng cách đi bộ ngắn hơn, nhưng không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

* BMI trung bình.

Chỉ số khối cơ thể trong nghiên cứu của chúng tôi tuy phần lớn là người bệnh có BMI ở mức bình thường nhưng hiện tại cũng đã có tới 18,33%

người bệnh đang có BMI ở mức gầy và 5,0% thừa cân. Các nghiên cứu chỉ ra rằng BMI có mối liên quan mật thiết đến tiên lượng bảo tồn chi và liên quan những biến chứng xung quanh thủ thuật can thiệp [104].

Béo phì cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với xơ vữa động mạch và bệnh động mạch ngoại biên.Trong một nghiên cứu, chất béo của cơ thể có liên quan chặt chẽ với các dấu hiệu viêm nhiễm cao gồm CRP và fibrinogen, đó là dự đoán cho bệnh xơ vữa động mạch lan tỏa tích cực. Trong một nghiên cứu của Gorter et al (2004) tỷ lệ hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân có bệnh mạch máu xơ vữa động mạch đã được xác định trong 1117 bệnh nhân với độ tuổi tuổi trung bình là 60. Sự phổ biến của hội chứng chuyển hóa trong dân số nghiên cứu là 46%; 58% ở những bệnh nhân có bệnh động mạch ngoại biên [4].

Tuy nhiên, một số nghiên cứu về dịch tễ bệnh động mạch ngoại biên trong những năm gần đây đã không tìm thấy một liên kết quan trọng giữa béo

phì và bệnh động mạch ngoại biên hoặc chứng đau cách hồi. Béo phì được liên quan đến các nguyên nhân của các yếu tố nguy cơ khác của bệnh động mạch ngoại biên, chẳng hạn như tăng huyết áp, đái tháo đường type II, và rối loạn lipid máu [16]. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu.

Một phần của tài liệu Đánh giá hiệu quả của can thiệp nội mạch qua da ở bệnh nhân bị bệnh động mạch chi dưới mạn tính bằng nghiệm pháp đi bộ 6 phút (Trang 89 - 95)

Tải bản đầy đủ (DOC)

(132 trang)
w