Chương 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011
2.3 MỞ RỘNG VÀ ĐA DẠNG HÓA HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN (2001 – 2011)
2.3.4 Công tác đối ngoại tôn giáo, nhân quyền
Đối ngoại tôn giáo, nhân quyền là một trong những nội dung mới trong đối ngoại nhân dân so với giai đoạn trước. Do một số thế lực thù địch, với các mục tiêu và ý đồ chính trị riêng, đã và đang tìm mọi cách xuyên tạc và vu cáo Việt Nam về các vấn đề nhân quyền, dân chủ, tôn giáo, dân tộc. Ví dụ tiêu biểu ở Tây Nguyên năm 2001 và năm 2004, đứng đầu là Ksor Kok tự nhận là “Tổng thống” của cái gọi là “Nhà nước Đê Ga độc lập”, ra sức hoạt động ly khai và vì mục đích vu cáo Việt Nam “đàn áp, bắt giam và cưỡng bức người dân tộc ít người bỏ đạo” Tin lành ở Tây Nguyên, tìm mọi cách gây chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc, kích động bạo loạn.
Tổ chức “Bảo vệ quyền làm người Việt Nam” do Võ Văn Ái làm Chủ tịch, tập hợp một số phần tử cay cú trước thất bại của chúng tại miền Nam Việt Nam năm 1975 đã ra sức chống phá, bôi nhọ hình ảnh đất nước mình. Lợi dụng danh nghĩa là Phó chủ tịch Liên đoàn Nhân quyền (FIDH), một tổ chức phi chính phủ quốc tế có quy chế tư vấn của ECOSOC, Võ Văn Ái liên tục chống Việt Nam tại các khóa họp của Ủy ban nhân quyền Liên Hợp Quốc…
Vì vậy, đấu tranh chống lại luận điệu vu cáo, bôi nhọ của các thế lực thù địch về các vấn đề tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, dân tộc là nội dung quan trọng của công tác đối ngoại nhân dân những năm gần đây.
Công tác đối ngoại tôn giáo: Hầu hết các tổ chức tôn giáo nước ta đều có mối quan hệ quốc tế nhất định, ở những mức độ khác nhau. Thông qua việc trao đổi đoàn các chức sắc, tín đồ ra nước ngoài học tập, dự hội nghị, hội thảo, tham gia các hội nghị quốc tế tôn giáo thế giới, khu vực… Hoạt động đối ngoại của các tôn giáo diễn ra sôi nổi và phong phú bao trùm hầu hết các địa bàn, lãnh thổ và liên quan đến các lĩnh vực của đời sống xã hội [17, tr.133].
Trong những năm gần đây, các giáo hội Việt Nam tham gia nhiều hội nghị khu vực và thế giới do các tổ chức tôn giáo và tổ chức quốc tế đứng ra tổ chức.
Trong thời gian từ ngày 9 đến ngày 20/5/2002 và từ ngày 8 đến ngày 18/6/2004, các đoàn gồm đại diện của Ban Tôn giáo Chính phủ và chức sắc tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Tin lành) đã sang Mỹ thăm và làm việc với các đối tác quan tâm đến vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.
Năm 2003, Đoàn đại biểu Phật giáo của Việt Nam đã tham gia Đại hội lần thứ X tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình tại Lào với sự hỗ trợ về tài chính của Phật giáo Nhật Bản và sự đồng ý của Chính phủ Lào.
Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra các Nghị quyết để thực hiện tốt hơn công tác đối ngoại tôn giáo, Nghị quyết số 25 – NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 BCHTƯ (khóa IX) Về công tác tuyên giáo (tháng 3/2003), ngày 29/6/2004 Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và có hiệu lực từ ngày 15/11/2004.
Ngày 01/03/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Đây là những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay và là cơ sở pháp lý để chúng ta đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch quốc tế.
Nhờ có chủ trương của Đảng, vấn đề đối ngoại tôn giáo đã được các đoàn thể và tổ chức nhân dân quan tâm nhiều hơn. Trong năm 2004, qua kênh tôn giáo, đã có 600 lượt cá nhân chức sắc và tín đồ tôn giáo Việt Nam đi nước ngoài. Năm 2005 có hơn 200 lượt cá nhân chức sắc và tín đồ các tôn giáo đi học, hội thảo hoặc tham gia các hoạt động tôn giáo nước ngoài. Năm 2004, chúng ta tổ chức tốt Đại hội 9 Hội
đồng giám mục Việt Nam và Đại hội 32 Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), đón chu đáo đoàn Thứ trưởng ngoại giao Vaticăng, tham dự có hiệu quả Hội nghị Quốc tế về Phật giáo và Du lịch tinh thần, Đại hội Thánh thể Quốc tế lần thứ 48, tổ chức thành công Đại hội đồng lần thứ 2 Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam). Năm 2008, để thắt chặt hơn nữa quan hệ giữa Phật giáo Lào và Phật giáo Việt Nam, phái đoàn Trung ương Phật giáo Lào do hòa thượng Kham Salybut phó chủ tịch liên minh Phật giáo Lào làm trưởng đoàn đã sang thăm Việt Nam và dâng cúng Giáo hội Phật giáo Việt Nam pho tượng Phật Tổ Thích Ca.
Pho tượng này hiện được an thờ tại ngôi bảo tháp chùa Phổ Minh, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2008 Việt Nam đảm nhận tốt vai trò Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc thành công, Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc – Vesak lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, đây là sự kiện lớn của Phật giáo Việt Nam và thế giới, tôn vinh những giá trị văn hóa tâm linh, đạo đức của Phật giáo, gửi tới toàn thế giới thông điệp về hòa bình, đoàn kết, hữu nghị của Việt Nam… thông qua các hoạt động đối ngoại tôn giáo, các đoàn đại biểu Việt Nam phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và cuốn văn bản pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng tôn giá.
Nhờ những hoạt động tích cực của các tôn giáo (Công giáo, Cao Đài, Hòa Hảo,…) vào công tác xã hội đã góp phần làm giảm áp lực từ bên ngoài với Việt Nam trên vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. Qua đó, đã khẳng định chính sách nhất quán về tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tôn giáo của nhân dân của Đảng và Nhà nước.
Nhằm tuyên truyền tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Việt Nam, giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ và đúng hơn về đất nước, con người Việt Nam, cuốn
“Sách trắng” về tôn giáo đã được biên soạn và phát hành.
Đối ngoại tôn giáo có ý nghĩa hết sứ quan trọng, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo Việt Nam cũng như của thế giới.
Công tác đối ngoại nhân quyền, là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Trong những năm qua Việt Nam đã tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống xu hướng chính trị hóa và thái độ “tiêu chuẩn kép” của một số nước trong vấn đề nhân quyền, chống việc sử dụng các nghị quyết về “tình hình nhân quyền”
tại một số nước để gây sức ép và can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền của các nước đang phát triển. Đồng thời, Việt Nam còn chủ động mời một số báo cáo viên của Liên hợp quốc và đón nhiều đoàn nước ngoài vào tìm hiểu tình hình tại Việt Nam. Các đại diện của một số tổ chức nhân dân đã được mời tham dự các lớp tập huấn ở nước ngoài về nhân quyền, và đã đạt được những kết quả khá tích cực [17, tr.138].
Các hoạt động đối ngoại của tổ chức tôn giáo nói riêng và tổ chức nhân dân nói chung trong lĩnh vực tôn giáo, nhân quyền không chỉ đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái, xuyên tạc chế độ, Đảng và Nhà nước mà ngày càng làm cho bạn bè thế giới hiểu rõ hơn về đất nước, con người Việt Nam. Từ đó, có nhiều đối tác và bạn bè mới đặt quan hệ và làm ăn với Việt Nam, đây là thành tựu to lớn của ta trong thời kì hội nhập thế giới.
Tiểu kết chương 2
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động đối ngoại nhân dân đã chủ động hơn trong việc hoạch định đường lối, chủ trương. Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), lần thứ X (năm 2006) và lần thứ XI (năm 2011) đã dành một phần riêng để nói về đối ngoại nhân dân, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhân dân theo phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả”. Không chỉ đề ra đường lối trong các văn kiện, mà trong những lời phát biểu của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động đối ngoại nhân dân, chỉ ra quan hệ của đối ngoại nhân dân trong thời kỳ đất nước ta đang mở cửa, hội nhập với thế giới, nhằm tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị của nhân dân ta với nhân dân thế giới.
Với sự lãnh đạo và quan tâm sát sao của Đảng, hoạt động đối ngoại nhân dân, của các tổ chức nhân dân ta trong giai đoạn này đã diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng và đạt nhiều hiệu quả tích cực. Có thêm nhiều hoạt động mới
như vấn đề tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, vấn đề chất độc da cam (điôxin),… đã hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đảm bảo phương châm “linh hoạt, mềm dẻo và kiên quyết”, tại các diễn đàn quốc tế, khu vực, các tổ chức nhân dân đã chủ động đưa vấn đề đấu tranh của ta ra bàn bạc và trở thành nội dung chính của diễn đàn. Chính vì vậy mà, quan hệ đối tác song phương của ta được mở rộng và củng cố, quan hệ đa phương ngày càng phát triển đột phá, đồng thời ta cũng tham gia có hiệu quả và tổ chức tốt nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng. Tranh thủ được thiện cảm, sự đồng tình và ủng hộ ngày càng rộng rãi của nhân dân các nước đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân ta, thúc đẩy kinh tế, thương mại, du lịch, văn hóa, giáo dục của ta ngày càng phát triển.
Các hoạt động hòa bình, đoàn kết hữu nghị, bày tỏ sự đoàn kết, ủng hộ của nhân dân Việt Nam đối với cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân chủ và tiến bộ xã hội. Tham gia giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu như:
Chống chiến tranh, loại trừ vũ khí hạt nhân, bảo vệ môi trường, phòng chống HIV/AIDS… đã góp phần tích cực vào các hoạt động chung của quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Qua việc thực hiện các phong trào, đối ngoại nhân dân đã phát huy được vai trò của mình, tạo dựng được cơ sở quần chúng, nền tảng nhân dân cho quan hệ nước ta với các nước, nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, tranh thủ được sự giúp đỡ của nhân dân các nước qua các tổ chức phi chính phủ nước ngoài và các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị của một số nước. Những nguồn vốn, công nghệ mà ta tiếp thu được đã đóng góp cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Qua các hoạt động của đối ngoại nhân dân, những hình ảnh tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam được bạn bè và đối tác nước ngoài biết đến, ta đã tranh thủ mọi sự ủng hộ giúp đỡ cả về vật chất và tinh thần để xây dựng đất nước, giữ vững hòa bình, phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, góp phần đẩy lùi những âm mưu đen tối của các thế lực thù địch, chống phá Đảng và Nhà nước.
Chương 3