Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
2.2.2. Chủ thể, đối tượng của giáo dục pháp luật cho phạm nhân
Trong công tác GDPL nói chung, chủ thể GDPL và đối tượng tiếp nhận GDPL là “đối tác” của nhau, nằm trong mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau để cùng hướng tới đạt được mục tiêu của GDPL.
2.2.2.1. Chủ thể giáo dục pháp luật cho phạm nhân
Theo lý luận giáo dục học, chủ thể giáo dục là những thầy giáo, cô giáo và những người khác làm công tác quản lý giáo dục. Vận dụng lý luận này vào lĩnh vực GDPL cho PN trong các TG, có thể hiểu, chủ thể GDPL là tất cả những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các mục tiêu của GDPL cho PN. Đó chính là các nhà giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, cách hiểu này mới chỉ nhìn thấy một khía cạnh của chủ thể GDPL là những người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia truyền đạt nội dung GDPL cho PN, mà chưa nhìn thấy một thành tố quan trọng khác thuộc chủ thể GDPL cho PN trong các TG - cơ quan quản lý GDPL cho PN.
Như vậy, chủ thể GDPL cho PN trong các TG ở nước ta hiện nay phải được nhìn nhận từ cả ba phương diện: chủ thể giữ vai trò quản lý công tác GDPL cho PN, chủ thể giữ vai trò tổ chức triển khai công tác GDPL cho PN và chủ thể trực tiếp thực hiện GDPL cho PN trong các TG.
a) Chủ thể giữ vai trò quản lý
Theo quy định của Luật Thi hành án hình sự, hệ thống tổ chức thi hành án hình sự gồm có cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự. Cơ quan quản lý thi hành án hình sự gồm “a) Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an; b) Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng” [64, khoản 1, Điều 10]. Cơ quan thi hành án hình sự gồm “Trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu” [64, điểm a, khoản 2, Điều 10]. Luật Thi hành án hình sự cũng giao “Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy
định chi tiết tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự” [64, khoản 4 Điều 10].
Theo Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an [16], công tác quản lý thi hành án hình sự thuộc về Tổng cục VIII. Quản lý công tác giáo dục cải tạo PN, trong đó có GDPL, giáo dục công dân cho PN tại các TG là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của Tổng cục VIII. Chức năng, nhiệm vụ đó được giao cho Cục Giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng, quy định tại Quyết định số 4051/QĐ-BCA ngày 11/12/2009 của Bộ trưởng Bộ công an Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp [8].
Để bảo đảm sự thống nhất trong chỉ đạo nghiệp vụ, hướng dẫn việc áp dụng các quy định của pháp luật về thi hành án hình sự nói chung, giáo dục cải tạo PN nói riêng, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Quyết định số 35/QĐ-BCA ngày 5/012010 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Cục Giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng (Cục C86). Điều 1 của Quyết định trên quy định về vị trí và chức năng:
Cục giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng thuộc Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp có trách nhiệm giúp Tổng cục trưởng chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật đối với phạm nhân, trại viên; chỉ đạo hoạt động giáo dục cải tạo, công tác quản giáo và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về đặc xá, giảm thời hạn, tạm đình chỉ, miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại cho phạm nhân trong các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, miễn chấp hành phần thời gian còn lại cho trại viên trong các cơ sở giáo dục;
chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc hòa nhập cộng đồng cho những người chấp hành xong hình phạt tù, chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục [9, Điều 1].
Từ vị trí, chức năng kể trên, với tư cách chủ thể quản lý công tác GDPL cho PN trong các TG, Cục C86 có các nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
- Nghiên cứu xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn thi hành về công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân... [9, khoản 1, Điều 2]. Thực hiện nhiệm vụ này, trong những năm qua, Cục C86 đã tham mưu cho các cấp có thẩm
quyền và Tổng cục VIII xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn thực hiện về công tác giáo dục cải tạo phạm nhân nói chung, giáo dục pháp luật, giáo dục công dân cho phạm nhân nói riêng, như: Thông tư liên tịch số 02/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BGDĐT ngày 06/02/2012 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo Hướng dẫn việc tổ chức dạy văn hóa, giáo dục pháp luật, giáo dục công dân, phổ biến thông tin thời sự, chính sách và thực hiện chế độ sinh hoạt, giải trí cho phạm nhân; Nghị quyết số 02/NQ-ĐU ngày 26/3/2012 của Đảng ủy Tổng cục VIII Về tăng cường lãnh đạo công tác giáo dục phạm nhân, trại viên, học sinh giai đoạn 2012 - 2016; Thông tư số 39/2013/TT- BCA ngày 25/9/2013 của Bộ Công an Quy định về giáo dục và tư vấn cho phạm nhân sắp chấp hành án phạt tù; Công văn số 148/C81-C86 ngày 30/01/2013 Hướng dẫn việc dạy văn hóa, giáo dục pháp luật, giáo dục công dân cho phạm nhân...
Những văn bản pháp quy trên đây là cơ sở pháp lý để các TG triển khai thực hiện công tác GDPL cho PN.
- Nghiên cứu xây dựng nội dung, chương trình giáo dục cải tạo và các biện pháp tác động giáo dục... [9, khoản 2, Điều 2]. Hiện thực hóa nhiệm vụ này, năm 2009, Tổng cục VIII đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (Bộ giáo dục và Đào tạo) biên soạn Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” gồm 03 tập dành cho 03 nhóm đối tượng PN (PN mới đến trại giam chấp hành án phạt tù; PN đang chấp hành án phạt tù; PN sắp chấp hành xong án phạt tù), góp phần tạo nên sự đồng bộ, thống nhất trong công tác GDPL cho PN tại tất cả các TG thuộc Bộ Công an. Sau mấy năm triển khai thực hiện, đến nay, Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định nên năm 2014, Tổng cục VIII đã ban hành Chương trình khung về giáo dục cải tạo PN, trong đó quy định những nội dung cụ thể về GDPL cho ba nhóm PN nêu trên, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012.
b) Chủ thể giữ vai trò tổ chức thực hiện
Chủ thể giữ vai trò tổ chức thực hiện GDPL cho PN trong trong TG là Giám thị trại giam. Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật quy định: “Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho phạm nhân” [65, khoản 3, Điều 21]. Thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ theo luật định, Giám thị TG hoặc Phó giám thị được ủy quyền có trách nhiệm phân công công tác chuẩn bị cơ sở vật chất, tài liệu học tập pháp luật cho PN; lựa chọn và xây dựng đội ngũ CBGDPL có đủ
trình độ chuyên môn, kiến thức, hiểu biết pháp luật và năng lực nghiệp vụ sư phạm để trực tiếp lên lớp truyền đạt nội dung GDPL cho PN; giám sát, kiểm tra việc thực hiện chương trình, đưa ra hình thức đánh giá kết quả GDPL cho PN trong TG...
c) Chủ thể giữ vai trò trực tiếp thực hiện giáo dục pháp luật cho phạm nhân Chủ thể giữ vai trò trực tiếp thực hiện hoạt động GDPL cho PN trong TG là lãnh đạo TG (Giám thị, các Phó giám thị), chỉ huy (Đội trưởng) và những cán bộ thuộc Đội giáo dục - hồ sơ (đơn vị nghiệp vụ thuộc cơ cấu tổ chức cán bộ của TG).
Các cán bộ này là những nhà GDPL, có nhiệm vụ chuẩn bị giáo án/bài giảng theo quy định của chương trình GDPL cho PN; chuẩn bị các câu hỏi, bài tập tình huống, sự kiện pháp lý thực tiễn liên quan đến nội dung bài giảng, lựa chọn phương pháp GDPL phù hợp và trực tiếp lên lớp truyền đạt nội dung GDPL cho các PN; qua đó, hiện thực hóa mục tiêu của công tác này. Khi cần thiết, Giám thị trại giam hoặc phó Giám thị được ủy quyền có thể trực tiếp lên lớp làm công tác GDPL cho PN.
Ngoài ra, tùy theo chủ đề pháp luật có tính chất chuyên sâu, chuyên ngành cần phổ biến, giáo dục cho PN trong các TG, tùy thuộc vào điều kiện vật chất, khả năng kinh phí, nhu cầu thực tế của PN và sự đồng ý của Giám thị TG, từng TG có thể mời các thầy giáo, cô giáo của các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật, mời những chuyên gia pháp luật đang công tác tại Tổng cục VIII, Sở Tư pháp các tỉnh trên địa bàn TG đứng chân, mời các thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư... đến TG và trực tiếp lên lớp giảng bài cho PN.
Các trại giam... có thể mời giáo viên hoặc người có chuyên môn về pháp luật, giáo dục công dân có trình độ từ đại học trở lên đang công tác ở các cơ sở giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc các cơ quan của Bộ Tư pháp vào giảng dạy pháp luật và giáo dục công dân cho phạm nhân [11, khoản 1, Điều 10].
Sự đa dạng hóa thành phần chủ thể GDPL cho PN sẽ mang đến những cách tiếp cận vấn đề khác nhau với kiến thức lý luận, thông tin và kinh nghiệm thực tiễn đa dạng, phong phú. Điều đó sẽ ra tạo ra sự mới mẻ, sức hấp dẫn, lôi cuốn PN vào bài học pháp luật, kích thích sự hăng hái học tập của PN.
2.2.2.2. Đối tượng của giáo dục pháp luật
Đối tượng của GDPL là những người chịu sự tác động của hoạt động GDPL, trực tiếp tham gia vào quá trình GDPL để tiếp thu, lĩnh hội những thông tin, kiến thức pháp luật xuất phát từ nhu cầu hoặc yêu cầu hình thành, tích lũy, củng cố hay nâng
cao vốn kiến thức, hiểu biết pháp luật của bản thân nhằm đáp ứng những đòi hỏi nhất định của thực tiễn cuộc sống. Đối tượng của GDPL cho PN trong các TG chính là những phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù trong các trại giam ở Việt Nam. Dựa trên các quy định của pháp luật về thi hành án hình sự, các TG với tư cách là chủ thể tổ chức hoạt động GDPL cho PN; còn PN với tư cách là đối tượng, tham dự vào hoạt động GDPL được tổ chức dành riêng cho họ nhằm tiếp nhận những thông tin, kiến thức pháp luật cần thiết, phục vụ thiết thực cho quá trình chấp hành án phạt tù trong TG cũng như sau khi mãn hạn tù, trở về tái hòa nhập cộng đồng.
Đối tượng PN trong các TG có cơ cấu rất đa dạng và mang những nét đặc thù riêng chỉ có ở đối tượng này, như: phạm những tội khác nhau và có mức án phạt tù khác nhau; trình độ học vấn rất không đồng đều, từ mù chữ cho đến tốt nghiệp đại học, thậm chí sau đại học; có sự đa dạng về thành phần dân tộc; có nghề nghiệp và địa bàn cư trú rất khác nhau trước khi nhập trại; đa số không có hoặc rất thiếu kiến thức, hiểu biết pháp luật; một bộ phận có diễn biến tâm lý phức tạp; có cả PN là người nước ngoài... Chủ thể GDPL cần nắm bắt, thấu hiểu những nét đặc thù trên đây để có thể đưa ra những nội dung, phương pháp và hình thức GDPL sao cho phù hợp với đặc thù của từng nhóm đối tượng PN. Dựa trên những nét đặc thù đó, chủ thể GDPL cần xây dựng những tiêu chí phân hóa đối tượng nhằm bảo đảm hiệu quả GDPL cho PN.
Hiện nay, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2012/TTLT-BCA-BQP- BTP-BGDĐT, PN trong các TG được phân chia thành ba nhóm đối tượng với nhu cầu và yêu cầu tiếp nhận GDPL khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn chấp hành án phạt tù của họ; tương ứng với 03 chương trình GDPL: chương trình dành cho số PN mới đến chấp hành án phạt tù (GDPL đầu vào), chương trình cho số PN đang chấp hành án phạt tù (GDPL thường xuyên) và chương trình cho số PN sắp chấp hành xong án phạt tù (GDPL đầu ra).