Chương 4 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
4.1.3. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại các trại giam
Giáo dục pháp luật cho PN trong các TG là hoạt động có mục đích, có tổ chức và tuân theo những kế hoạch do chủ thể GDPL vạch ra; bởi vậy, hoạt động này phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau:
4.1.3.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế XHCN là một nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ quá trình xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật, trong đó có GDPL. “Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác” [89, tr.508-509]. Trong thực hiện
pháp luật thi hành án hình sự, nguyên tắc pháp chế đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền và mọi cá nhân có liên quan phải nghiêm túc chấp hành các quy định pháp luật về GDPL cho PN trong TG.
Theo tinh thần đó, công tác GDPL cho PN trong các TG không chỉ tuân thủ các QPPL được nêu trong Bộ luật Hình sự, Luật Thi hành án hình sự, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; mà còn phải bảo đảm tuân thủ các quy định về nội dung, phương pháp, hình thức, thời lượng GDPL cho PN trong các TG được nêu tại các văn bản hướng dẫn của các cơ quan chức năng thuộc Bộ Công an. Bên cạnh đó, việc GDPL cho PN cũng phải bảo đảm đáp ứng quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của PN; tránh tình trạng áp đặt, duy ý chí.
Về phía PN, nguyên tắc pháp chế đòi hỏi mỗi PN phải tuyệt đối chấp hành các quy định pháp luật về nội dung, phương pháp, hình thức và thời lượng GDPL dành cho PN đang chấp hành án phạt tù trong các TG; phải có tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm trong việc học tập pháp luật để vừa phục vụ trực tiếp cho quá trình chấp hành án phạt tù, vừa chuẩn bị hành trang kiến thức pháp luật để tái hòa nhập cộng đồng sau khi hết thời hạn chấp hành án.
4.1.3.2. Nguyên tắc nhân đạo
Nguyên tắc nhân đạo một nguyên tắc lớn, phổ biến trong chính sách, pháp luật của Nhà nước ta và được áp dụng rộng rãi trong đời sống pháp luật. Bộ luật Hình sự đưa ra các nguyên tắc xử lý mang tính nhân đạo:
3. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục; 4. Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt; 5. Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích [61, khoản 3, 4, 5 Điều 3].
Việc bắt buộc người bị kết án phải chấp hành án trong TG không nhằm hạ nhục danh dự, nhân phẩm hay gây đau đớn về thể xác của họ; mà là giáo dục, cải tạo trở về với con đường lương thiện, trở thành công dân có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Điều đó nói lên tinh thần nhân đạo, nhân văn trong chính sách, pháp luật của Nhà nước ta đối với người bị kết án.
Việc pháp luật quy định phải tổ chức GDPL cho PN trong các TG tự nó đã chứng tỏ tính chất nhân đạo, nhân văn của pháp luật, rằng GDPL cho PN trong các TG là để trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật cho PN, giúp họ nhận ra sai lầm, tội lỗi đã phạm phải trước đây, nay cần phải chủ động, tự giác học tập pháp luật nhằm tích lũy kiến thức phục vụ cho việc tài hòa nhập cộng đồng sau này. Bởi vậy, trong công tác GDPL cho PN phải tuân thủ nguyên tắc “bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án” [64, khoản 3, Điều 4].
4.1.3.3. Nguyên tắc phối kết hợp chặt chẽ giữa trại giam, các cơ quan hữu quan, gia đình phạm nhân và bản thân mỗi phạm nhân
Về nguyên tắc, triển khai thực hiện công tác GDPL nói chung không chỉ là trách nhiệm của cá nhân, cơ quan hay đơn vị chức năng, mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia của Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, các tổ chức, cơ quan, đoàn thể xã hội, nhà trường, gia đình và sự nỗ lực của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, GDPL ở đây không có nghĩa là “mạnh ai nấy làm”, mà phải tuân thủ nguyên tắc phối kết hợp chặt chẽ giữa các bên hữu quan. GDPL phải mang tính hệ thống, có sự điều hành thống nhất, hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng và các cá nhân về nội dung, phương pháp, hình thức GDPL. Sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các bên hữu quan đảm bảo sự vận hành có hiệu quả GDPL cho các đối tượng xã hội.
Theo nguyên tắc đó, công tác GDPL cho PN trong các TG đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa TG, các cơ quan hữu quan, gia đình PN và bản thân mỗi PN. Các TG giữ vai trò chủ thể chính, chỉ đạo, tổ chức và điều hành công tác GDPL theo chương trình, kế hoạch đã được xác định; vai trò hàng đầu thuộc về những CBGDPL của các TG được phân công chuẩn bị bài, trực tiếp lên lớp truyền đạt nội dung GDPL cho PN; các cán bộ quản giáo có trách nhiệm hỗ trợ tích cực cho hoạt động này. Các cơ quan hữu quan giữ vai trò phối hợp trong việc cử chuyên gia lên lớp giảng dạy, tổ chức những hoạt động có tính chất lồng ghép giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho PN khi có yêu cầu; kiểm tra, giám sát việc thực hiện chương trình GDPL cho PN. Gia đình PN giữ vai trò động viên PN tự giác, tích cực học tập pháp luật, chấp hành nội quy, quy chế qua những lần thăm gặp hoặc nói chuyện
điện thoại; có thể gửi sách, báo, tạp chí có các nội dung pháp luật phù hợp để PN tự đọc, tìm hiểu thêm. Bản thân mỗi PN phải nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập pháp luật, chiếm lĩnh tri thức pháp luật. Sự phối kết hợp chặt chẽ giữa TG, các cơ quan hữu quan, gia đình PN và bản thân mỗi PN vừa là quan điểm chỉ đạo, vừa là biện pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả GDPL cho PN.