Chương 3 TÌNH HÌNH PHẠM NHÂN, THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
3.1.9. Cơ cấu theo mức án
Các số liệu thống kê thu được từ 23 TG cho thấy: Trong số 292.400 PN đang chấp hành án phạt tù trong TG, mức án tù giam từ trên 3 năm đến 7 năm (tội phạm nghiêm trọng) là mức án mà 117.142 PN trong các TG đang phải chấp hành, chiếm 40.06% - cũng là tỷ lệ cao nhất trong các mức án tù giam được thống kê. Chiếm tỷ lệ cao tiếp theo là mức án tù từ 3 năm trở xuống (tội phạm ít nghiêm trọng) với 105.478 PN đang phải chấp hành, chiếm 36.08%. Có 56.382 PN đang chấp hành án từ trên 7 năm đến 15 năm tù giam (tội phạm rất nghiêm trọng), chiếm 19.28%; mức
án từ trên 15 đến 30 năm chiếm 3.61% (10.567 PN); thấp nhất là mức án tù chung thân với 2.831 PN, chiếm 0.97%.
Đơn vị tính: người
2831 10567
56382
117142
105478
0 20000 40000 60000 80000 100000 120000
Chung thân Trên 15 - 30 năm
Trên 7 - 15 năm
Trên 3 - 7 năm
Đến 3 năm
CƠ CẤU THEO MỨC ÁN PHẠM NHÂN ĐANG CHẤP HÀNH
Biểu đồ 3.10: Cơ cấu theo mức án phạm nhân đang chấp hành Nguồn: Tác giả tổng hợp [80; 81; 82; 83; 84] (xem chi tiết tại Phụ lục 1k)
Với cơ cấu mức án như vậy, vấn đề đặt ra trong công tác GDPL cho PN ở các TG hiện nay là phải sàng lọc, phân loại phạm nhân theo từng mức án trước khi tiến hành GDPL cho họ nhằm đảm bảo tiến độ chương trình và tránh tình trạng có PN phải học tập pháp luật nhiều lần, trong khi có PN chưa kịp học vì phải chuyển TG hoặc hết thời hạn chấp hành án.
3.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHẠM NHÂN TRONG CÁC TRẠI GIAM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Việc đánh giá thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của công tác GDPL cho PN trong các TG ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh cơ sở lý luận, luôn đòi hỏi phải có những minh chứng, luận cứ thực tiễn. Các minh chứng, luận cứ thực tiễn sẽ giúp cho việc phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của công tác GDPL cho PN mang tính đúng đắn, khách quan và khoa học, tránh được căn bệnh giáo điều. sự suy diễn chủ quan, cảm tính hay tùy tiện. Theo lôgíc đó, để tìm kiếm các minh chứng, luận cứ thực tiễn cho việc đánh giá đúng thực trạng công tác GDPL cho PN trong các TG ở Việt Nam trong những năm qua, tác giả đã sử dụng phương pháp ĐTXHH thông qua việc xây dựng, phát ra, thu về và xử lý số liệu hai loại Phiếu thu thập ý kiến: Mẫu phiếu dành cho CBGDPL trong TG và Mẫu phiếu dành cho
PN trong các TG. Nội dung các mẫu phiếu gồm những câu hỏi liên quan tới các khía cạnh khác nhau của hoạt động GDPL cho PN trong các TG. Các phiếu thu thập ý kiến được phát ra - thu về tại 24 TG do Bộ Công an quản lý, đứng chân trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, gồm:
1) TG Quyết Tiến (tỉnh Tuyên Quang); 2) TG Ngọc Lý (tỉnh Bắc Giang); 3) TG Xuân Nguyên (thành phố Hải Phòng); 4) TG Hoàng Tiến (tỉnh Hải Dương); 5) TG Tân Lập (tỉnh Phú Thọ); 6) TG Vĩnh Quang (tỉnh Vĩnh Phúc); 7) TG Phú Sơn 4 (tỉnh Thái Nguyên); 8) TG Thanh Xuân (thành phố Hà Nội); 9) TG Thanh Lâm (tỉnh Thanh Hóa); 10) TG số 6 (tỉnh Nghệ An); 11) TG Xuân Hà (tỉnh Hà Tĩnh);
12) TG Bình Điền (tỉnh Thừa Thiên - Huế); 13) TG Đắk Tân (tỉnh Đắk Lắk); 14) TG Đại Bình (tỉnh Lâm Đồng); 15) TG Thủ Đức (tỉnh Bình Thuận); 16) TG Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai); 17) TG An Điềm (tỉnh Bình Dương); 18) TG An Phước (tỉnh Bình Dương); 19) TG Xuyên Mộc (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu); 20) TG Thạnh Hòa (tỉnh Long An); 21) TG Mỹ Phước (tỉnh Tiền Giang); 22) TG Cao Lãnh (tỉnh Đồng Tháp); 23) TG Kênh 7 (tỉnh An Giang); 24) TG Cái Tàu (tỉnh Cà Mau).
Về số lượng phiếu, đối với Phiếu thu thập ý kiến (Dành cho CBGDPL trong TG): số lượng phiếu phát ra là 650 phiếu; số lượng phiếu thu về là 584 phiếu; đạt tỷ lệ 89.84%. Đối với Phiếu thu thập ý kiến (Dành cho PN trong các TG): số lượng phiếu phát ra là 1300 phiếu; số lượng phiếu thu về là 1258 phiếu; đạt tỷ lệ 96.76%.
Sở dĩ phải xây dựng, triển khai hai mẫu phiếu thu thập ý kiến dành cho hai đối tượng khảo sát khác nhau (CBGDPL với tư cách là chủ thể giáo dục và PN với tư cách là đối tượng tiếp nhận GDPL) là để có đầy đủ cơ sở so sánh, đối chiếu kết quả thu được, ý kiến của hai nhóm đối tượng này trước cùng một vấn đề bởi họ là “đối tác” của nhau trong hoạt động GDPL. Ngoài ra, để bảo đảm tính xác thực, độ tin cậy của kết quả ĐTXHH, tác giả còn sử dụng thêm phương pháp phỏng vấn thông qua việc gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn trực tiếp các CBGDPL và PN tại 10 TG trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Trên cơ sở kết quả xử lý phiếu, tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng công tác GDPL cho PN trong các TG ở Việt Nam trong những năm qua trên phương diện những điểm thành công, kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập của công tác này; phân tích các nguyên nhân đưa đến những thành công và nguyên nhân của những hạn chế. Cuộc ĐTXHH có mục đích phục vụ trực tiếp
cho việc viết luận án, bởi vậy, các bảng số liệu và từng số liệu cụ thể được sử dụng trong luận án, nếu không có sự dẫn nguồn cụ thể khác, thì có nghĩa đó là các bảng số liệu và số liệu được khai thác từ cuộc ĐTXHH do chính tác giả luận án thực hiện. Các mẫu phiếu thu thập ý kiến và kết quả xử lý phiếu được trình bày ở phần Phụ lục của luận án.