CHƯƠNG 1: NỘI DUNG KỊCH CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI
1.3 NH ỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU TRONG KỊCH CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI
1.3.3 S ự trăn trở và hoài vọng về đạo đức, nhân sinh được thể
Đã là nghệ thuật thì chút tưởng tượng, hư cấu trong tác phẩm sẽ làm tăng thêm tính hấp dẫn và ý nghĩa của nội dung câu chuyện. Đó là sự lĩnh hội nghệ thuật sáng tác khá độc đáo mà Nguyễn Đình Thi đã học hỏi được từ các nước phương Tây. Sự vật, hiện tượng được hiện hữu trong sự tưởng tượng, trong tâm tưởng của con người thì muôn hình muôn vẻ. Quan trọng là ở "điểm nhìn" nào mà tác giả lựa chọn sẽ mang lại hiệu quả cao cho ý đồ nghệ thuật mà tác giả muốn gửi gấm vào tác phẩm. Có những chi tiết, những hình tượng mang yếu tố hoang đường, kì ảo trong tác phẩm mà chúng ta đoán biết không thể nào có được ở cuộc đời thực nhưng thực chất lại có ý nghĩa lớn chuyên chở những điều suy tư, trăn trở của tác giả về hiện thực cuộc sống. Trong một số vở kịch của Nguyễn Đình Thi, người ta đã tìm thấy những yếu tố huyền ảo đó và nhìn sâu hơn nữa, vượt qua những hình ảnh hiển hiện của nó là những bài học về đạo lý, những điều răn có ý nghĩa để con người sống tốt đẹp, thánh thiện hơn.
Thường ở thể loại kịch nói thì những yếu tố huyền ảo xuất hiện trong kịch không nhiều nhưng với Nguyễn Đình Thi là một điều ngoại lệ khá đặc biệt.
Chúng ta có thể kể ra đây nhiều hình ảnh và tình tiết mang màu sắc hư ảo như:
sự xuất hiện của Thần chết và nhiều oan hồn đến từ thế giới bên kia, những phép thuật phù thủy biến hoa, cô gái huyền ảo hiện thân của dòng sông, pho tượng đá biết cười, chiếc lá đa nhảy lên tai của người nói dối... Rất nhiều những điều lạ mang đến cho kịch Nguyễn Đình Thi một sắc thái riêng nhiều ý nghĩa mà phải không phải ai cũng có thể sáng tạo được.
Trong vở Giấc mơ, khi nói về sự xuất hiện của Thần chết và những sắc màu u ám lạnh lẽo của cõi âm thì tác giả muốn con người ý thức được sự quý giá của cuộc sống. Tác giả muốn chúng ta nhìn thấy người lính đang trong cơn hấp hối ấy yêu quí sự sống đến nhường nào. Anh đã đấu tranh đến cùng để dành nó sống mặc dù nếu được sống anh không còn được lành lặn như những người bình thường. Anh hiểu được mình là một thương binh anh dũng, chứng nhân cho cuộc chiến thắng thần thánh của dân tộc. Nếu suy nghĩ thực tế hơn,
sâu xa hơn thì sự đấu tranh giữa người lính trong cơn thập tử nhất sinh và Thần chết chỉ là sự đấu tranh giữa ý chí và thân xác của người lính. Thân xác anh đã mệt mỏi rã rời nhưng lý trí bảo rằng anh nhất định phải sống và cuối cùng thì lý trí đã thắng. Sự xuất hiện của những người đã chết trong tác phẩm càng làm tăng thêm khát vọ ne; sống tốt đẹp và kiên cường của người lính. Tần Thủy Hoàng hay Nữ hoàng Ai Cập đã sống cuộc sống hưởng thụ, mưu cầu những lợi ích bất chính cho bản thân mình nên họ phải nhận lấy cái chết đau đớn và tủi nhục. Tần Thủy Hoàng cả đời đánh chiêm, muốn thâu tóm cả thiên hạ trong tay mình lại chết ướp trong mùi cá thối trên đường bôn ba tìm thuốc trường sinh bất tử. Nữ hoàng Ai Cập một thời có được sắc đẹp, quyền uy , của cải... nhưng do sống trong nhục cảm và thù hận, gây ra nhiều tội ác nên nhận lấy một cái chết đau đớn. Ngược lại, hình ảnh của công chúa Tiên Dung và Chữ Đồng Tử lại hiện lên một cách thánh thiện và trong sáng bởi họ đã có một tình yêu tuyệt vời, không chút mưu toan, vụ lợi. Một nàng công chúa lại sẵn sàng từ bỏ cả cung vàng điện ngọc để sống cùng chàng đánh cá nghèo không một manh vải che thân. Tình yêu của họ đã được đền đáp bằng một cuộc sống thật đầm ấm, hạnh phúc. Phải chăng tác giả muốn nói đến một chân lý về cuộc đời này, hãy sống cho xứng đáng và chết xứng đáng. Làm người, điều hạnh phúc nhất là sống có ích, là đấu tranh giành lấy sự sống đến hơi thở cuối cùng. Điều đó vừa là một thực tế, vừa là một giấc mơ mà người ta không phải bao giờ cũng có thể thực hiện được.
Trong vở kịch còn có khóm tre ngà là hình ảnh thiên nhiên được thần thánh hóa, là người bạn thân thiết của người lính sau khi anh bị thương trở về.
Những khi thấy người lính buồn bã, đăm chiêu, khóm tre lại lắc lư, rì rào và rực sáng như an ủi, động viên. Có đoạn khóm tre tự giới thiệu về mình: "Ta là cây tre bao đời - Không bao giờ bỏ con người - Hỡi bạn có biết - Ta vẫn hằng che chở - Bao nỗi niềm anh buồn vui..." (30, 249). Có thể hiểu rằng, thiên nhiên, cây cỏ vốn vô tri, vô giác cũng biết ơn và che chở cho người lính sau chiến tranh. Những thân tre chắc khỏe, tươi tắn, vàng một cách óng ả như vẻ đẹp cứng cỏi của quê hương luồn đồng hành cùng con người. Và khóm tre ấy, biểu tượng của quê hương, người bạn thân thiết của con người, là vô giá, là
nghìn vàng khôn đổi như người lính đã từng làm khi từ chối bán cho lão lái buôn ham hố và tự phụ.
Dòng sông- tiếng sóng là một hiện tượng của tự nhiên hiện hữu hầu khắp mọi nơi trên đất nước, gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người. Vào trong tác phẩm kịch, dòng sông được biểu tượng bằng hình ảnh của người con gái huyền ảo nói lên những lời triết lý về cuộc đời. Và trong khắp các cảnh kịch, trước cảnh ngộ khó khăn, bất hạnh của con người thì luôn có sự hiện diện của dòng sông đang không ngừng vỗ sóng. Với tác giả, tiếng sóng còn là nỗi lòng của con người, khi khổ đau tiếng sóng vỗ càng mạnh mà lúc bình thường có thể ta không để ý thấy sự hiện hữu của nó.
Tiếng sóng như vỗ mạnh mẽ không ngừng trước hoàn cảnh đáng thương của những bệnh nhân ho lao nặng, phải điều trị ở khu cách ly của một bệnh viện kháng chiến trong rừng. Tác giả tập trung miêu tả hoàn cảnh và tâm trạng của hai nữ bệnh nhân là bà giáo và Bảo đang được điều trị tại đó. Hai hoàn cảnh trái ngược nhau và cách đối xử của hai người chồng dành cho họ cũng hoàn toàn trái ngược nhau. Từ cách so sánh sóng đôi ấy tác giả đặt ra một vấn đề về tình yêu thương chân thật và đạo đức làm người. Bà giáo và Bảo xuất hiện trong vở kịch của Nguyễn Đình Thi vào lúc bệnh tình đang ở vào giai đoạn quyết liệt nhất. Chính trong lúc ấy, họ cần những tình cảm ân cần, yêu thương, chăm sóc của người thân nhiều hơn hết. Cô Bảo tuy ở trong cảnh nghèo thiếu trước hụt sau, nhưng bù lại cô được người chồng bộ đội không quản ngại khó khăn cực nhọc, chăm nom, lo lắng chu đáo cho cô với một tình cảm thương yêu chân thật. Cô trở nên tươi tắn và bệnh của cô cũng có phần thuyên giảm hơn khi có được sự chăm sóc của chồng. Từ việc nhỏ đến việc lớn anh đều làm đỡ cho vợ như: gỡ và chải tóc giặt giũ, vào rừng lấy củi... Ngược lại, người chồng cán bộ của bà giáo lâu lâu ghé vào thăm vợ nhưng không dám đến gần bà. Bà ho rũ rượi cũng không bước tới đỡ bà, chỉ ngồi xa xa với áo choàng và khăn bịt mặt cẩn thận. Thuốc men, thức ăn thì anh chồng mang vào đầy đủ cho bà nhưng bệnh bà vẫn không chút thuyên giảm mà ngày còn nặng hơn. Trong từng cử chỉ và lời nói của bà chứa đựng nỗi tủi hờn, buồn khổ và
chịu đựng:
" NGƯỜI CHỒNG - Em chịu khó mà ăn cam, tốt cho phổi lắm. Cam đường đấy, bóc lấy khỏi phải nhờ ai...
BÀ GIÁO -... Thôi... Em ... (ỏm ngực ho, lau miệng, đỏ nhờ chiếc khăn xô trắng).
NGƯỜI CHÔNG - (vẫn đứng ngoài lấn, nhìn vào) vẫn ra máu đấy à?
BÀ GIÁO - (hổn hển)... Cũng có bớt... NGƯỜI CHỒNG - Để anh đi gọi y tá nhé.
BÀ GIÁO - Thôi... Có gì đâu... Anh Đạt ạ, anh lên lần này... Em sợ muộn rồi! (...)
BA GIAO - ơ trong này, toàn mùi sát trùng, anh khó chịu phải không? Để em ra ngoài ấy cho thoáng.
NGƯỜI CHỒNG - ừ, để anh đi gọi cô y tá đỡ em ra.
BÀ GIÁO - Thôi, em vẫn đi lấy, có gì đâu... (cố dậy, men ra nằm ở ghế vải).
Người chồng kéo ghế lùi ra một ít, rồi như ngượng, đứng dậy đi lại quanh quẩn.(30, 564-565)
Việc chăm sóc cho vợ, người chồng vô tâm này phó mặc cho y tá, từ lau mặt, đắp chăn đến bóc cam... Chồng đi rồi cũng là lúc những giọt nước mắt buồn tủi lăn dài trên má người vợ. Tối đó không nhiều đắn đo nhưng vô cùng đau đớn bà quyết định sẽ kết thúc cuộc đời mình. Dòng sông chứng nhân cho nỗi bất hạnh của bà sẽ mang bà đi xa. Trước khi chết bà muốn tất cả những thuốc men mà bà có sẽ được đưa sang cho cô Bảo, người có được nhiều may mắn hơn bà. Những lời nói có vẻ như triết lý cuối cùng của bà khi tâm sự với cô y tá có lẽ cũng là lời Nguyễn Đình Thi muốn gửi gấm đến tất cả chúng ta về đạo lý và nhân cách làm người: "Một tình thương yêu không bao giờ mất cả.
Nó bay đến một chỗ nào đấy, nó gieo vào một tình cảm, một ý nghĩ nào đấy của một người nào, có khi nó truyền đến tận đâu, nảy nở thành những gì không
ngờ được... ừ, con
người ta có một đời sống tâm hồn chứ, mà càng là con người thì đời sống tâm hồn càng mạnh hơn tất cả! Vậy mà có người vẫn sống mà quên mất linh hồn của mình..." (30, 569-570)
Trong mọi hoàn cảnh, tinh thần là vô giá, không gì có thể đánh đổi và thay thế được. Tinh cảm có thể làm cho con người vốn khô cằn và xấu xí có thể trở nên xinh đẹp, duyên dáng và tràn đầy sức sống hơn. Nguyễn Đình Thi thông qua bối cảnh và nhân vật kịch đã gởi một thông điệp mang nhiều ý nghĩa đến cho cuộc đời.
Ở một cảnh khác của vở kịch, tiếng sóng là một biểu tượng quý giá của sự sống. Ông X trong một giấc ngủ, mơ thấy mình bị lạc xuống cõi âm, làm một vị quan lớn của cõi ấy. Nhưng ở chỉ trong chốc lát ông đã thấy chán nản với quang cảnh mù mờ, màu sắc loe loẹt, quỷ sứ quây quần xung quanh. Vào lúc ấy ông chợt nghe tiếng sóng vỗ và tiếng sóng ấy đã gọi ông trở lại cuộc đời thật. Ông vô cùng vui mừng cảm thấy như được hồi sinh khi sự sống đang vận động xung quanh. Các trò đùa giỡn của trẻ con mà mới vừa nãy ông đã nổi giận quát mắng, giờ ông lại cảm thây yêu quý biết bao. Tiếng sóng vỗ, tia nắng chiếu, hàng cây rì rào, trẻ con nô đùa... là sự sông mà đôi khi người ta lại không để ý đến. Mọi cố gắng bon chen tranh giành ở thế gian rồi cũng bỏ lại sau lưng khi ta từ giã cuộc đời. Bài diễn văn mà ông X cay cú khi không được đọc trước hội nghị ấy có ý nghĩa gì khi ông xuống cõi âm. Cái nhà hai tầng, tủ lạnh, ti vi, têlêphôn... còn có giá trị gì khi ông không còn nữa. Tất cả đều bỏ lại... Có lẽ ông X thật sự hiểu ra điều đó khi ông tỉnh lại sau một giấc mơ nhiều ám ảnh và nhận ra được giá trị đích thực con người cần đeo đuổi ở cuộc đời này.
Từ hình ảnh dòng sông và âm thanh của tiếng sóng, Nguyễn Đình Thi liến tưởng có một dòng sông không ngừng động sóng ở bên trong mỗi đời người.
Dòng sông ấy được tác giả biểu trưng bằng hình ảnh của người con gái huyền ảo, hiện diện trong tác phẩm như một chứng nhân hằng hữu. Rồi bao nhiêu cảnh đời, bao nhiêu số phận được tác giả xây dựng thật như từ trong cuộc sống
bước vào tác phẩm, thật đến không ngờ. Không có cảnh ngộ nào trong Tiếng sóng mà không nghe nói đến ở ngoài đời. Nhưng điều quan trọng nhất là cách tác giả hướng con người cư xử với nhau sao cho hợp với nhân luân và đạo lý.
Từ đó đưa ra quan niệm và triết lý sống đúng đắn của riêng mình.
Có hai hình ảnh tuy khác nhau nhưng mang ý nghĩa giống nhau ở cả hai vở kịch. Đó là hình ảnh pho tượng đá biết cười khi con người đứng trước mặt nó không nói đúng với ý nghĩ thật trong lòng mình ở vở kịch Con nai đen và tương tự là hình ảnh chiếc lá đa mọc trên tai những người nói dối trong vở Hòn cuội. Có thể hiểu đây là điều đặc biệt tâm đắc và thích thú của tác giả khi dùng để phản ánh cuộc đời. Nhờ pho tượng thần kì này mà nhà vua biết được những lời nói ngọt ngào của những cô công nương, quận chúa kia chỉ là giả dối, duy chỉ có lời nói dối của cô gái rừng quế thì thật đáng yêu. Và cũng nhờ chiếc lá đa mọc trên tai người nói dối mà người ta nhận ra ở cái làng quê bé nhỏ nơi Cuội ở có vô số người nói dối, lừa lọc lẫn nhau. Có những người lâu nay không nhận ra là mình đang bị dối gạt cho đến khi những chiếc lá đa thần kì xuất hiện.
Và thế là họ xông vào ẩu đả lẫn nhau...
Chi tiết chiếc lá đa mọc trên tai những người nói dối này hay hình ảnh pho tượng đá biết cười đã thể hiện ngụ ý của Nguyễn Đình Thi về cuộc đời. Đó là không phải điều gì cũng có thể phơi bày ra hết sự thật, sống ở trên đời này có biết bao sự dối trá lừa lọc nhưng nếu con người ai cũng biết minh bị dối trá lừa lọc thì xã hội này sẽ đầy rẫy những sự chém giết lẫn nhau. Tác giả muốn gửi gấm những mơ ước thật đẹp của mình về cuộc đời và tự hỏi nên chăng khi con người cứ sông hòa bình trong sự lừa lọc. Còn tìm một xã hội người và người đối xử với nhau hoàn toàn chân thật thì biết đến bao giờ...
Sự kiện hòn cuội biến thành người và sau đó về trời cũng có ý nghĩa đặc biệt. Đó là một hòn đá khi có tâm hồn và làm được những việc tốt thì có thể hơn những con người tầm thường ở thế gian. Và bởi thế gian này còn đầy rẫy những việc xấu nên người ta không dung được Cuội. Cuội phải trở về nơi chôn thật của mình mang theo những hoài vọng tốt đẹp còn chưa thực hiện được ở thế gian. Cuội, một nhân vật đã trở thành huyền thoại vào trong kịch của
Nguyễn Đình Thi càng lấp lánh sắc màu hơn và mang những khát vọng mà tác giả mong muốn có được ở cuộc đời trần thế này.
Và hàng loạt những hình ảnh, sự kiện mang tính chất huyền ảo, kì bí như đã nhắc ở phần trên như những phép phù thủy thay hình đổi dạng, người biến thành tượng đá bất tử với thời gian, bóng hình người chết hiện lên mờ ảo cùng tiếng hát văng vẳng từ trong chiếc chén... Tất cả những điều đó tạo thành một chất riêng trong kịch của Nguyễn Đình Thi và mang những ý nghĩa giáo dục nhân sinh sâu sắc.
Người ta vốn thường hay nói "Nhân chi sơ tính bản thiện", chỉ có cuộc đời mới gọt giũa, nhào nặn thành ra đủ thứ loại người khác nhau: tham lam, ích kỷ, độc ác, hung tợn, xấu xa... Không có loại người nào là không có ở cuộc đời này, đó là điều thật đáng buồn và đau lòng. Từ những loại người ấy mà đã nảy sinh ra biết bao bi kịch ở thế gian. Bao nhiêu tác phẩm văn học nghệ thuật được sáng tác, bao nhiêu hình tượng nghệ thuật được xây dựng, điều cốt yếu là mong muốn cho con người sống tốt đẹp hơn, đối xử với nhau nhân ái, chan hòa hơn...
Từ đó cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh tiến bộ vì lợi ích chung của tất cả mọi người.