Ngôn ngữ đối thoại

Một phần của tài liệu đặc điểm kịch nguyễn đình thi (Trang 105 - 121)

CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT KỊCH CỦA NGUYÊN ĐÌNH

2.3.1 Ngôn ngữ đối thoại

Khi diễn, người diễn viên phải liên tục dùng những lời nói, cử chỉ, hành động để khán giả ngồi xem có thể hiểu được nội dung vở kịch. Trong một vở kịch, không thể có quá nhiều đoạn độc thoại hay những khoảnh khắc lặng im vì như vậy sẽ làm cho vở kịch bị loãng đi và khán giả sẽ mất sự hào hứng khi theo dõi. Đọc những đoạn đối thoại trong kịch của Nguyễn Đình Thi, người ta nhận thấy một vốn ngôn ngữ thật phong phú, nhiều màu sắc tạo nên một chất kịch thật riêng biệt của ông.

2.3.1.1 Chất văn học thâm trầm, sâu lắng trong ngôn ngữ kịch Nguyễn Đình Thi

Có thể nói chất văn học thâm trầm, sâu lắng trong kịch của Nguyễn Đình Thi là điều đầu tiên mà độc giả khi đọc kịch của ông có thể nhận thấy ngay được. vốn là một nhà văn được xem như cây đại thụ trong nền văn học Việt Nam, chất văn học được thể hiện trong kịch của ông đến một cách tự nhiên, nó tiềm ẩn trong từng lời thoại của nhân vật, thể hiện một cốt cách trí tuệ mà không phải nhà viết kịch nào cũng có được. Tùy theo từng nhân vật mà tác giả dành cho họ những lời thoại khác nhau. Đặc biệt những lời thoại mang tính văn học không thể phát ra từ miệng của những nhân vật vào vai lỗ mãng, lưu manh hay lơ đãng, hời hợt mà phải ở những nhân vật có sự thông tuệ, chất chứa những nỗi niềm sâu kín. Ớ một đoạn trong vở Hoa và Ngần, chất văn học thấm đẫm trong từng lời thoại của đôi tình nhân Hoa và Lâm đang trò chuyện cùng nhau dưới rặng phi lao, bãi biển Quảng Bình:

LÂM - Kỳ lạ thật, Hoa ạ.

Im lặng. Hoa từ nãy giờ vẫn nghịch cát, bỗng vốc một nắm cát trắng đưa cho Lâm.

HOA - Đây là thật, anh nhỉ?

LÂM – (Dịu dàng) Hoa... Cũng lạ, hôm đầu đến nhà em, anh tự nhiên có cảm tưởng ngay là có cái gì trong đời anh khác hẳn. (Im lặng)

HOA - Anh nói nữa đi.

LÂM - Kể ra anh đi bây giờ cũng tiếc khu rừng phi lao này. Năm nay sẽ trồng lên đến tận khu đồi cát trước mặt kia. Sang năm Hoa vào, thì cả khu rừng này đã lấm tấm xanh cả. Trông cát trắng đẹp thế, nhưng mà dữ dội lắm. Mỗi năm cát nó lấn vào, vùi thêm vài làng. Chắc em đã thấy bao nhiêu suối lạch đã gần cạn dần, cát nó lấp cả. Không làm cật lực thì tất cả vùng này sẽ chết khô.

Nhưng bây giờ thì chắc sống được rồi. Mà anh nghe nói cát trắng này cũng là của đấy, có cái gì mình còn đang tìm, mà chưa nói ra. Nhưng mà thôi, việc này còn nhiều người làm, bây giờ anh phải đi cái đã. Công việc trong kia còn cần hơn. Chỉ là một con đường mòn giữa dải Trường Sơn trùng điệp, nhưng nó sẽ thành cái gì, chưa ai nghĩ trước hết được." (30, 123-124)

Ở vở Giấc mơ, đoạn anh chiến sĩ bị thương và Thần chết trò chuyện với nhau:

THẦN CHẾT Ta là kẻ xét xử

Đợi ở cuối đường đi của mỗi con người Ta không hề bao giờ động lòng Nhưng ít khi nào lầm lẫn

Con người được ta trả lại cho đất bụi Và cũng ta làm nên ánh hào quang

Hóa con người thành phật thánh được phụng thờ.

(...)

NGƯỜI LÍNH Ta đã nói với người

Đối với ta làm gì có thần với thánh!

THẦN CHẾT

Người chiến sĩ không tiếc đời sống mình Sao lại không phải là một vị thánh! Ta muôn anh ra đi Giữa một vầng rạng rỡ... (30, 196).

Đây là một đoạn trong vở kịch thơ của Nguyễn Đình Thi được dư luận

đánh giá khá cao. Vở kịch hay không chỉ ở nội dung, ý nghĩa cao đẹp của câu chuyện mà còn ở ngôn ngữ kịch được trau chuốt như những vần thơ từ đầu đến cuối tác phẩm và tất nhiên là chất văn học càng được thể hiện rõ trong những vần thơ như vậy. Trong từng câu chữ được cô đúc lại, ý nghĩa của lời nói như được hiểu rộng hơn, vượt ra ngoài khuôn khổ của nó để tìm ra một chân lý sống ở trên đời.

Để so sánh ta thấy ngôn ngữ kịch của Nguyễn Huy Tưởng cũng hàm chứa chất văn học nhưng là một cách hành văn khác, có phần sắc sảo, cứng cỏi thể hiện cái riêng rất đáng trân trọng của từng tác giả. Ví dụ, ta có thể kiểm chứng điều ấy trong đoạn gặp gỡ giữa người nghệ sĩ tài hoa Vũ Như Tô và cô cung nữ Đan Thiềm trong vở kịch lịch sử Vũ Như Tô, vở kịch đầu tiên mang đến vinh quang cho tác giả Nguyễn Huy Tưởng:

" ĐAN THIỀM - Trời xui khiến tôi gặp ông ở chốn này. Thực là duyên kỳ ngộ.

VŨ NHƯ TÔ - Tôi là một kẻ quế mùa, không biết những nhời mỉa mai bóng gió.

ĐAN THIỀM - Đây là thực tình. Ông đừng nghi kỵ. Chính tôi đang muôn gặp ông để nói chuyện.

Vũ NHƯ TÔ - Hỏi chuyện tôi! Để làm gì? Các người không thể nào hiểu được chuyện tôi, các người nông nổi...

ĐAN THIỀM - Ông mới gặp tôi, lấy cớ gì mà bảo tôi nông nổi? VŨ NHƯ TÔ - Người ăn chơi thì đều nông nổi. ĐAN THIÊM - Sao ông bảo tôi là người ăn chơi.

VŨ NHƯ TÔ - Cung nữ đều là tuồng ăn chơi. Huống chi trông quầng mắt thâm kia, tôi đoán chắc là người trong túy hương mộng cảnh.

ĐAN THIỀM - Ông nhầm lắm. Đôi mắt thâm quầng này là do những lúc thức khi người ngủ, khóc khi người cười, thương khi người ghét.

VŨ NHƯ TÔ -ủa? Bà nói như một người đồng bệnh.

ĐAN THIỀM - Chính là một người đồng bệnh, nên chưa biết ông, tôi đã ái ngại cho ông. Tài làm lụy ông, cũng như nhan sắc phụ người."(39, 67-68).

Cả Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Huy Tưởng đều có những tác phẩm nổi tiếng làm nên tên tuổi của mình nhưng ở mỗi tác giả đều có cách hành văn riêng, ngôn ngữ riêng, cả hai ông đều vận dụng tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc, cộng với sự trải nghiệm của bản thân để hình thành nên từng vở kịch. Công sức của họ, những nhà viết kịch không phải là nhỏ nêu không muôn nói là vồ cùng to lớn.

2.3.1.2 Chất triết lý trong ngôn ngữ kịch Nguyễn Đình Thi

Triết lý là những quan niệm chung của con người về nhân sinh và xã hội.

Mỗi người đều có thể có những triết lý riêng về cuộc sống miễn sao người nghe chấp nhận được. Kịch hay văn học nghệ thuật nói chung là tấm gương phản ánh về cuộc đời, con người nên ở mỗi tác phẩm không thể không có những suy tư, những quan niệm về lẽ sống ở đời, về cách cư xử giữa người và người.

Chính những lời mang chất triết lý đó góp phần nâng cao giá trị tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về hiện thực cuộc sống của mỗi tác giả. Nguyễn Đình Thi cũng vậy, là một người nghệ sĩ tài hoa và từng trải, những lời triết lý về con người và cuộc đời đến trong tác phẩm của ông một cách tự nhiên như ông từng nhìn thấy và chiêm nghiệm được. Chất triết lý ấy hầu như có trong tất cả các thể loại của ông. Trong thơ:

" Không sợ nguy hiểm Sợ không biết nhìn vào nguy hiếm Không sợ thiếu niềm tin

Sợ không nhận ra lẽ phải để tin

Không sợ thiếu bạn nơi chiến trường Sợ không biết tự mình chiến đấu. " ( Không sợ và sợ) (32,575)

Những câu thơ ngắn gọn dạy người ta lẽ sống ở đời, những cái gì nên sợ và không nên sợ. Từng câu, từng chữ thấm đẫm ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

Trong tiểu luận, bút ký, một thể loại mà tác giả rất dễ bộc lộ những suy nghĩ của mình, Nguyễn Đình Thi cũng có những câu triết lý về cuộc sống rất

có ý nghĩa và mang tính thuyết phục. Chẳng hạn như đoạn nói về tinh thần Việt Nam trong bài Sức sống của nhân dân Việt Nam trong ca dao và cổ tích, bài nói chuyện nhân ngày hội sinh viên năm 1944:

“Xem thế, tinh thần Việt Nam không ưa bi đát, không ưa đem cái bất lực của con người trước số mệnh mà say sứa. Người dân lúc nào cũng trọng sự sông hơn cái chết và không công nhận sô mệnh đau đớn mà tìm cách chống lại định mệnh, chữa lại định mệnh, để làm dịu bớt những vết thương, để tăng lên lòng tin tưởng, vui vẻ, ham sống.”(32, 30)

Riêng về kịch, ta có thể tìm được rất nhiều câu triết lý nằm rải rác trong các vở kịch của ông. Khác với hai thể loại trên, những câu triết lý trong kịch thường được phát ngôn từ các nhân vật và nó dễ đến với công chúng hơn nữa với loại hình sân khấu. Kịch cũng là một thể loại mà tác giả dễ dàng bộc lộ những suy nghĩ, những điều suy ngẫm sâu sắc nhất của mình về cuộc sống.

Đây là lời của phu nhân Đạo Đức triết lý về sắc đẹp và đạo đức:

"Dạ đức vua là bậc tài trời sáng suốt. Người có kén hoàng hậu thì trước hết xin Người nhìn vào đạo đức. Còn sự già trẻ, xấu đẹp nào có nghĩa lý, quan trọng gì. Ai trẻ rồi cũng đến lúc có tuổi, ai đẹp rồi cũng đến lúc phai nhạt sắc đẹp (...) Tâu đức vua, cho nên cái gì cũng ngày một già đi, xâu đi, nhưng đạo đức thì chỉ mỗi ngày một sáng mãi thêm, đẹp mãi thêm." (30, 30-31).

Đến lời của vua trần Thái Tông suy luận về số kiếp và lòng tham của con người với hoàng hậu thuận Thiên trong vở Rừng trúc:

"Chính ta đang sợ điều ấy. Ta sợ đã quen nhiều cái vẽ vời bày đặt, mà xa mất cái gốc thật của tự nhiên. Bữa nay đọc kinh Kim Cương, bỗng xấu hổ mà buồn rượi trong lòng. Nghĩ thân mình, trên đầu đội ngọc vàng, chẳng qua là cái gáo sọ dừa, chứ cái gì đâu. Gấm vóc lụa là bao bọc, chẳng qua che đậy cái túi da lông lá đựng máu tanh, miệng lưỡi nói văn vẻ, mà trong ruột già nhồi những bã hôi thối. Kiếp làm người nghĩ đáng sợ. Biết rằng đời như cái bóng mây qua, nhưng lòng tham tiếc lắm, không có cách nào dứt bỏ được, tham từ quyền nắm cả thiên hạ cho đến một miếng ăn ngon cũng không thể không thèm. Ây thế đấy! "(30, 336-337).

Hay là lời của Nguyễn Trãi tâm sự cùng Cúc trong vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan. (Ở đoạn này xin mạn phép không bàn về dư luận phê bình một số lời thoại trong vở kịch vào những năm 1980, bởi những ý kiến đó cũng chưa phải là đã được phổ biến rộng rãi):

NGUYỄN TRÃI - ...Đồng bằng qua cơn lửa. Cây cỏ đều thơm lạ... thật ra vẫn là cây cỏ ấy, chỉ có, nhận ra được không phải dễ. Có phải không cô? Nhìn cho thấu một con người, không dễ chút nào, thời buổi này, người ta hay có nhiều bộ mặt. Dùng con mắt nào mà nhìn bây giờ?

CÚC - Dạ vâng, lòng người có thước nào đo được. Cái quanh co của con người thật ghê gớm. Mà lòng thương của con người, cũng không cùng... Tôi nghĩ, có nhẽ con người ta còn có hai con mắt khác nữa, hai con mắt này mở ra thì nhìn được vào lòng người.

NGUYÊN TRÃI - Nghe cô mà tôi thầm giật mình. Có khi càng lọc lõi, khôn ngoan thì hai con mắt mình lại tối mờ đi... Hay là vì tôi đã phải chống chọi quá nhiều! Có khi cứ ngây thơ, trong trẻo mà lại nhìn rõ.

CÚC - Cũng có khi người ta phải tự chống chọi với mình để mà sống...

"(30,450).

Ta có thể tìm thấy nhiều hơn những câu triết lý rất có giá trị như thế ở trong kịch của Nguyễn Đình Thi mà phải có vốn sống, phải trải đời, hiểu người ông mới có thể đúc kết nên. Có những câu triết lý tuy ngắn gọn nhưng là sản phẩm của một đời va chạm với cuộc sống như câu nói của Lý Chiêu Hoàng trong vở Rừng trúc: "Vâng, việc nước là lớn nhất, nhưng việc người với người cũng không phải nhỏ hơn...". Đó là tư tưởng quan trọng của vở diễn và cũng là phương châm sống, lao động sáng tạo nghệ thuật của nhà nghệ sĩ lớn Nguyễn Đình Thi.

2.3.1.3 Chất dí dỏm, hài hước trong ngôn ngữ kịch Nguyễn Đình Thi Có thể nói ngay rằng chất dí dỏm hài hước trong kịch của ông không nhiều vì có những vở được ông sáng tác từ đề tài lịch sử hay những vở mang tính chất bi thương thì khó xen vào những đoạn hay cảnh có tính chất hài hước.

Nhưng đọc toàn bộ kịch của ông ta thấy không phải là không có những trang viết mang tính chất dí dỏm, hài hước, nó tạo nên chất duyên ngầm cùng những tiếng cười vui tươi từ độc giả.

Trước tiên hãy đến với vở Tiếng sóng, ở cảnh thứ ba là một cảnh kịch ngắn nói về nhân vật ông X vốn là một người dốt chữ nhưng lại hay hình thức màu mè, chỉ mỗi một câu chào thưa ở đầu bài diễn văn mà phải chữa đi chữa lại đến ba bốn lượt. Nào là thưa các đồng chí và các bạn thân mến, rồi kính thưa đồng chí Thứ trưởng, kính thưa đồng chí Viện trưởng, vẫn chưa vừa ý, lại chữa thưa đồng chí Thứ trưởng kính mến, thưa đồng chí Viện trưởng kính mến, thưa đồng chí Giám đốc kính mến, kính thưa các đông chí và các bạn thân mèn... Oi, thật là rác ròi. Bài diên văn ây, ông đã không làm được, phải nhờ người ta làm hộ nhưng lại hay chê, cứ tỏ vẻ là mình giỏi giang, nhưng càng như thế, càng lộ ra cái dốt của ông, khiến người đọc cảm thấy buồn cười. Đã thế khi nghe tin mình không được đọc diễn văn khai mạc hội nghị thì ông phản ứng như một đứa trẻ, vừa bực bội quăng những tờ giấy mà ông đã nhọc công sửa lại vừa nói "Vứt mẹ nó cái đám giấy này đi" (30, 540) nhưng liền sau đó là ông vội vàng nhặt lại vì sợ có khi cần đến.

Đến khi ông mệt quá, ngủ thiếp đi ở miếu Thổ thần, mơ thấy mình vốn là quan Đại tạng triều đình cõi âm, lên xem xét công việc trên trần gian thì tình tiết câu chuyện càng mang tính hài hước hơn. Ông thấy Thổ thần hiện lên khúm núm mời ông trở về âm phủ theo lệnh của Diêm vương, liền sau đó là ba cô gái đẹp như tiên đến sửa soạn áo mũ cho ông, được ca tụng và chăm sóc, ông sung sướng như không còn nhớ mình là ai nữa:

" CÔ c - Quan lớn có mỏi để con đấm lưng ạ.

ÔNG X - Xoa bóp chứ. Thôi để chốc nữa về nhà. Nào thế bây giờ đi bằng cái gì? Xe đâu? Dưới này đi ô tô loại gì? Trông có được không?

CÔ A - Dạ, quan lớn chỉ việc ngồi trên cái ghế này thôi ạ. Ngài ngồi lên cái ghế thần này muốn đi đâu chỉ chớp mắt là đến.

ÔNG X -ừ nhỉ, đi bằng ghế là đúng nhất mà tiện nhất. Nhưng mà... có đứa

nào chạy lại đằng nhà tao một tí được không? Cái nhà hai tầng xây kiểu mới đẹp đẹp ấy, lấy cho tao cái tủ lạnh, với cái ti vi. Lại còn cái têlêphon mới đặt nữa.

CÔ B - Dưới này cần gì các thứ ấy ạ. Đồ trên dương thế, xuống đây hoa thành đồ mã cả, không dùng được.

ÔNG X - Thế phải bỏ lại tất cả các thứ ấy à?

CÔ c - Dạ, có gì mà quan lớn phải bận tâm. Ngài về dưới này, thiếu gì phép thẫn thông biến hóa, cần gì mấy thứ đồ lặt vặt của bọn người trần. Ngài muốn nhìn thấy việc gì ở đâu, việc ấy sẽ hiện lên. Ngài muốn nói chuyện với ai, kẻ ấy sẽ tự nhiên nghe thấy. Ngài muốn xơi món gì, món ấy có ngay. Ngài giữ sổ cái cõi âm, muốn bắt kẻ nào, chỉ điểm một nét bút, là kẻ ấy phải chết ngay.

ÔNG X - Ta có quyền phép như vậy à? Thế thì có nhẽ về Phủ, ta phải tra sổ xem có thằng nào văn hay chữ tốt ta bắt lấy một thằng để nó viết báo cáo cho ta... Đi thế này hình như cũng hơi vội, ta nhớ mang máng có lẽ cũng còn phải báo tin về một nơi nào nhỉ...(Ba cô bưng miệng cười khúc khích) Chúng mày cười gì?

CÔ A - Dạ...quan lớn ngài còn vương vẩn một tí, ngài có đế lại trên cõi trần một vài người, thành ra ngài chưa dễ chịu...

CÔ B - Trên ấy họ gọi là bồ bịch!... " (30, 544-547)

Ở đoạn này chúng tôi trích dẫn hơi dài, sở dĩ như vậy vì chúng tôi nhận thấy đây là một đoạn hài hước thật đặc sắc. Ngôn ngữ tác giả dùng rất tự nhiên, gần gũi với đời sống hàng ngày của chúng ta nhưng đọc cả đoạn thì toát lên vẻ mỉa mai, châm biếm. Nó đả kích vào thói tật của những người chỉ biết hưởng thụ, sống sung sướng với xe hơi, nhà lầu, áo mão Xênh xang, người đẹp cung phụng. Họ đâu biết rằng vật chất von phù du, chỉ có tình người, nhân cách con người mới trường tồn mãi mãi.

Đến vở Hòn cuội là vở kịch mà nhà văn Marian Tkatchep (trong bài "Về Giấc mơ và tác giả") gọi là "một hài kịch thần tiên" (33, 390). Ngôn ngữ của vở

Một phần của tài liệu đặc điểm kịch nguyễn đình thi (Trang 105 - 121)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(141 trang)