Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật từ cấp độ câu trở xuống

Một phần của tài liệu đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng việt (Trang 21 - 25)

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VÀ

1.2. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

1.2.1. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật từ cấp độ câu trở xuống

Chịu sự quy định của tính tổng hợp, tác phẩm văn học sử dụng rất đa dạng vốn

từ vựng nhằm xây dựng hình tượng nghệ thuật theo đặc trưng của từng thể loại.

Xét theo phong cách chức năng, vốn từ nói chung có thể chia thành nhóm từ ngữ đa phong cách và nhóm từ ngữ đơn phong cách. Được coi là nền tảng và được sử dụng chung cho mọi phong cách tiếng Việt, từ ngữ đa phong cách cũng là lớp từ vựng nền tảng trong sáng tác nghệ thuật bởi chúng được phân bố trong các phạm vi biểu thị các sự vật, tính chất, hoạt động, trạng thái,… cơ bản của đời sống. Sự hiện diện của chúng không làm phương hại đến tính thẩm mĩ của văn bản nghệ thuật. Theo Cù Đình Tú, “cần tránh một quan niệm phiến diện, một cách đánh giá siêu hình rằng từ ngữ đa phong cách là cái kém màu sắc, kém hấp dẫn, ít gợi cảm. Vấn đề chủ yếu là cách dùng, biết dùng chứ không phải ở bản thân từ ngữ” [85, tr.204]. Nhóm từ ngữ đơn phong cách thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hành chính, phong cách ngôn ngữ chính trị, phong cách khẩu ngữ đều được sử dụng và phát huy sức mạnh của chúng trong tác phẩm tùy theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn.

Trong các nhóm từ ngữ này, từ khẩu ngữ rất cần thiết cho sáng tác văn học bởi “về cơ bản, từ khẩu ngữ tiếng Việt là những từ thuần Việt, rất giàu hình ảnh, giàu sắc thái biểu cảm, đó là những từ luôn luôn gắn chặt với cuộc sống sôi nổi, sinh động. Cho nên từ khẩu ngữ tiếng Việt thuộc loại công cụ lợi hại nhất để nhà văn có thể miêu tả, tái tạo được cuộc sống thực trong tác phẩm. Nhiều khi chỉ cần điểm một vài từ khẩu ngữ thôi nhưng tính cách nhân vật cũng hiện ra rất rõ nét” [85, tr.214]. Nhóm từ vựng thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương (từ vựng thi ca) kiểu như bóng nguyệt, lữ khách, giọt lệ,… cũng như các từ láy tượng thanh, từ láy tượng hình được sử dụng rất phổ biến vì chúng có giá trị tu từ đặc biệt, mang màu sắc cảm xúc, trữ tình.

Xét theo các tiêu chí khác (nguồn gốc, phạm vi sử dụng,…), ta có các lớp từ như từ thuần Việt, từ Hán -Việt, từ toàn dân, từ địa phương. Nhờ sự khác biệt về sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu cảm mà chúng đều có thể được sử dụng ở các mức độ khác nhau theo từng thể loại và từng truyền thống văn học của mỗi dân tộc, mỗi giai đoạn.

Chẳng hạn mức độ sử dụng từ Hán -Việt trong văn học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện đại không giống nhau. Trong khi ca dao, tục ngữ chủ yếu sử dụng từ thuần Việt thì thơ Đường luật, tiểu thuyết chương hồi sử dụng rất nhiều từ Hán - Việt.

Sự khác nhau này là do đặc trưng thể loại chi phối.

Nói chung, ngôn ngữ nghệ thuật hầu như không khước từ bất cứ từ ngữ nào trong vốn từ nói chung. Tuy nhiên, do đặc trưng của tính hình tượng, tính sinh động biểu cảm cần có để xây dựng hình tượng nghệ thuật, những lớp từ nào tỏ ra có ưu thế hơn sẽ được lựa chọn nhiều hơn. Người sáng tác cũng có thể sử dụng các thủ pháp tu từ để tăng cường hiệu quả diễn đạt cho từ ngữ mình lựa chọn. Khi đó, một từ thuộc lớp từ đa phong cách vẫn có thể phát huy sức mạnh để có được phẩm chất của ngôn ngữ tạo hình, gây được những hiệu ứng bất ngờ. Những nhà văn, nhà thơ bậc thầy là những người sử dụng từ ngữ rất quen thuộc nhưng hết sức sáng tạo. Theo Đào Thản, những từ Nguyễn Du sử dụng trong Truyện Kiều “có số lần xuất hiện cao nhất ở đây từ 100 đến 300 lần lại là những từ hết sức bình thường trong ngôn ngữ hằng ngày”

[77, tr.13]. Có thể thấy điều đó trong trường hợp sau:

Làm cho cho mệt cho mê, Làm cho đau đớn ê chề cho coi

Trước cho bõ ghét những người Sau cho để một trận cười về sau.

(Truyện Kiều, Nguyễn Du) Từ cho trong đoạn thơ trên quả là đắc địa.

Cũng cần phải thấy rằng, nằm trong chỉnh thể thẩm mỹ, tất cả các từ ngữ đều có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chúng có thể giữ những vai trò khác nhau, trong đó có những từ được coi là chủ chốt (trong thơ gọi là nhãn tự), có những từ mang tính phụ trợ nhưng đều hướng đến một mục đích chung, một hiệu quả diễn đạt chung. Chỉ khi nằm trong tác phẩm, chúng mới có được ý nghĩa cũng như giá trị thẩm mĩ của mình. Mặt khác, nó là một mắc xích quan trọng để tạo nên câu văn, đoạn văn, rộng hơn là cả văn bản; mất đi một yếu tố, chỉnh thể tác phẩm có thể sẽ không còn hay chí ít cũng bị tổn hại về mặt ngữ nghĩa hay phương diện thẩm mĩ.

Như vậy, việc sử dung từ ngữ trong văn bản nghệ thuật có thể nói là rất tự do nhưng lại chịu sự chi phối bởi quy luật thẩm mĩ. Chính điều này làm nên nét khác biệt giữa từ ngữ văn chương với vốn từ chung. Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật phải đi qua quá trình lao động nghệ thuật của người sáng tác.

1.2.1.2. Câu

Cũng tương tự như tình hình sử dụng từ ngữ, văn bản nghệ thuật sử dụng tất cả các kiểu câu thuộc nhiều phong cách khác nhau nhằm đạt đến hiệu quả diễn đạt cao nhất. Đây chính là điểm khác biệt của ngôn ngữ nghệ thuật so với các phong cách chức năng khác như ngôn ngữ hành chính, ngôn ngữ khoa học,…

Dưới góc độ mục đích phát ngôn, ngôn ngữ nghệ thuật có thể sử dụng tất cả các kiểu câu như câu tường thuật, câu cảm thán, câu nghi vấn, câu cầu khiến tùy theo ngữ cảnh và mục đích sử dụng.

Dưới góc độ đơn vị ngôn ngữ, câu luôn chứa đựng một thông tin và được tổ chức bằng một hình thức cú pháp nhất định. Các hình thức cú pháp này rất đa dạng.

Văn bản nghệ thuật, trước hết nhằm đảm bảo vai trò chuyển tải thông tin, sử dụng rất nhiều câu có kết cấu chủ vị mang màu sắc đa phong cách. Đây là dạng câu

“có thể xuất hiện ở bất cứ phong cách nào của tiếng Việt. Nó mang sắc thái biểu cảm trung hòa. Nó được dùng trong trường hợp cần trình bày sự vật tồn tại một cách khách quan, để người nghe tự mình tiếp nhận, không kèm theo sự nhấn mạnh hay đánh giá nào” [85, tr.335].

Xét theo một số tiêu chí khác, câu có thể chia thành câu bình thường, câu đặc biệt, câu tỉnh lược,… Mỗi loại câu có chức năng riêng trong văn bản nghệ thuật.

Nếu xem câu có kết cấu chủ-vị mang màu sắc đa phong cách là câu chuẩn thì văn bản nghệ thuật sử dụng rất nhiều những biến thể của nó.

Đó có thể là biến thể trật tự sắp xếp của kết cấu chủ - vị. Theo đó, trong một số văn cảnh, sự thay đổi trật tự sắp xếp gữa các thành tố không làm thay đổi quan hệ cú pháp mà chỉ thêm một số sắc thái ý nghĩa, sắc thái biểu cảm và màu sắc phong cách nào đó mà thôi. Các trường hợp như toàn bộ vị ngữ đặt trước chủ ngữ hay một bộ phận vị ngữ đặt trước chủ ngữ có tác dụng nhấn mạnh vị ngữ:

Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà (Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Đó có thể là biến thể lược bớt thành tố của kết cấu chủ - vị như các trường hợp:

chỉ còn vị ngữ; chỉ còn chủ ngữ; chỉ còn một thành phần phụ của vị ngữ; hay trường hợp không còn chủ ngữ, vị ngữ mà chỉ còn thành tố biểu thị sự đánh giá, hoặc trạng thái, hoặc lời thưa gửi, trả lời. Biến thể tỉnh lược có thể được dùng trong phong cách

ngôn ngữ văn chương khi cần miêu tả nhiều trạng thái, hay nhiều hoạt động của một đối tượng diễn ra liên tiếp. Việc sử dụng này còn có tác dụng nhấn mạnh nội dung thông báo.

Biến thể của kết cấu chủ vị trong ngôn ngữ nghệ thuật rất đa dạng và mỗi biến thể có thể được sử dụng trong mỗi ngữ cảnh khác nhau nhằm đạt đến hiệu quả diễn đạt nào đó.

Ngoài ra, để tăng cường khả năng khơi gợi hình tượng và tăng sức biểu cảm cho câu văn, nhà văn có thể sử dụng các biện pháp tu từ cú pháp như phép song hành cú pháp, phép liệt kê, phép chêm xen,… Các biện pháp tu từ này xuất hiện thường xuyên trong văn bản nghệ thuật, chẳng hạn:

Cô bé nhà bên- có ai ngờ- cũng vào du kích.

(Quê hương- Giang Nam) Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

(Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Tóm lại, văn bản nghệ thuật có thể sử dụng tất cả các kiểu câu nhưng việc sử dụng này đều có chủ đích rõ ràng và đem đến hiệu quả diễn đạt cao nhất, phù hợp với đặc trưng thẩm mỹ của thể loại và khuynh hướng của cá nhân người sáng tác. Bên cạnh đó, do sử dụng rất nhiều những biến thể của câu nên các câu văn trong ngôn ngữ nghệ thuật luôn liên kết chặt chẽ với nhau cả về phương diện hình thức lẫn phương diện nội dung ngữ nghĩa nhằm đảm bảo tính mạch lạc của văn bản cũng như góp phần tích cực vào quá trình xây dựng hình tượng nghệ thuật của tác phẩm.

Một phần của tài liệu đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng việt (Trang 21 - 25)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(132 trang)