Xét về màu sắc biểu cảm

Một phần của tài liệu đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng việt (Trang 45 - 68)

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI XÉT TỪ CẤP ĐỘ CÂU TRỞ XUỐNG

2.1. Đặc điểm từ vựng

2.1.3. Xét về màu sắc biểu cảm

2.1.3.1. Lớp từ gọi tên nhân vật

Trong ngôn ngữ học, từ dùng để gọi tên người thuộc lớp danh từ riêng. Vấn đề này thuộc vùng ngoại biên của từ vựng học. Bởi mặc dù thừa nhận chúng là từ nhưng các nhà từ vựng học không thể xếp chúng vào lớp từ nào.

Trong văn chương nói chung, từ gọi tên nhân vật không mấy khi được quan tâm.

Nếu ai đó đặt ra vấn đề nghiên cứu thì chúng cũng không được quan tâm dưới góc độ từ vựng học.

Tuy nhiên, với thể loại đồng thoại, khi nghiên cứu từ vựng, từ gọi tên nhân vật cần được xem xét bởi trong quá trình nhân hóa, tên các nhân vật không còn thuần túy là định danh, phân biệt mà ít nhiều có giá trị biểu cảm.

Từ gọi tên nhân vật trong truyện đồng thoại là một lớp từ đặc biệt. Xuất phát từ đặc điểm nhân vật đồng thoại chủ yếu là sự vật, hiện tượng, các tác phẩm đồng thoại thường dùng danh từ chung để đặt tên cho nhân vật của mình. Từ gọi tên nhân vật chỉ có chút khác biệt với các danh từ chung là ở hình thức viết hoa cho chúng. Nếu truyện lấy sự vật, hiện tượng làm nhân vật mà không dùng hình thức viết hoa thì người đọc không thể phân biệt đâu là từ chỉ tên nhân vật còn đâu chỉ là từ diễn tả bối cảnh truyện hay những nhân vật phụ làm nền, không có vai trò lớn trong câu chuyện.

Ta thấy những từ như vậy trong ví dụ (18):

(18) Sắp làm mồi cho , cho chim chăng? Nhưng quanh đây tôi không nghe thấy móng chim họa mi cào vào nan lồng, cũng không thấy con gà chọi đỏ mặt tía tai nào? (Dế Mèn phiêu lưu ký, tr.17)

So sánh với các từ ngữ chỉ tên nhân vật sau:

(19) Thì ra thấy Xiến Tóc mình đồng da sắt, đấm đánh bác ta như đấm bị bông, cứ trơ ra, chẳng mùi gì. Kiến Bọ Dọt lập mưu chui vào trong vành cổ Xiến Tóc. (Dế Mèn phiêu lưu ký, tr.112)

Xiến Tóc Kiến Bọ Dọt trong (19) là từ chỉ tên nhân vật, còn gà, chim, chim họa mi, gà chọi trong (18) chỉ là từ diễn tả sự vật đóng vai trò bối cảnh.

Một điều lưu ý nữa là trong truyện đồng thoại, các từ đi kèm tên gọi nhân vật như từ chỉ vị thứ trong gia đình, từ chỉ chức vụ, từ chỉ quan hệ họ hàng… không thể gộp chung vào tên gọi nhân vật vì các từ này dễ dàng bị thay thế khi đặt trong tương quan với nhân vật khác. Ví dụ: Dế Choắt có khi được gọi là chàng Dế Choắt (Dế Mèn phiêu lưu ký, tr.6), anh Dế Choắt (Dế Mèn phiêu lưu ký, tr.34). Tuy nhiên, có một số ít trường hợp kiểu từ trên đứng sau từ chỉ loài như Nhện mẹ, Nhện con… (Một bài học bổ ích - Viết Linh). Khi đó, từ mẹ, con trong trường hợp này được dùng như từ chỉ thứ bậc. Luận văn xếp chúng vào cùng kiểu với Thỏ trắng, Sóc bông…Đôi lúc, trong cách dùng lâm thời, từ chỉ loài bị lược đi, chỉ còn dùng từ chỉ tiểu loài. Ví dụ:

Mèn, Trũi (Dế Mèn phiêu lưu ký), Măng, Rô (Chuyến đi của Mày Mạy)…

(20) Chính lúc đó, một lão Chuối đen trùi trũi lao tới. (Chuyến đi của Mày Mạy, tr. 24)

(21) Tôi khuyên Trũi nên ở lại hang tôi mà chữa bệnh tới khi khỏi hẳn thì hãy về. (Dế Mèn phiêu lưu ký, tr. 45)

Ngữ liệu khảo sát cho thấy truyện đồng thoại có các cách dùng từ để đặt tên nhân vật như sau:

(a) Dùng ngay từ chỉ sự vật, hiện tượng để gọi tên nhân vật.

Ví dụ: Dê, Lợn, Chó, Mèo (Dê và Lợn - Tô Hoài), Gió, Mây, Khí Lạnh, Trái Đất (Áng Mây - Trần Hoài Dương). Có thể phân biệt các nhân vật cùng loài bằng cách

dùng từ chỉ loài kết hợp từ chỉ tiểu loài. Ví dụ: Chuột Chù, Chuốt Nhắt, Chuột Cống… (Đám cưới chuột) hoặc chỉ dùng từ chỉ tiểu loài như đã nói ở trên.

(b) Kết hợp từ chỉ sự vật, hiện tượng (được viết hoa) với từ chỉ tính chất sự vật (có thể viết thường) để gọi tên nhân vật.

Ví dụ: Thỏ trắng, Thỏ nâu, Sóc bông (Ba người bạn - Viết Linh), Khỉ Vàng, Khỉ Xám (Quả ngọt trên cao - Đồng Xuân Lan).

(c) Dùng từ chỉ tính chất sự vật để gọi tên nhân vật.

Ví dụ: Mảnh Khảnh (Cô bé Mảnh Khảnh - Trần Hoài Dương), Tí Hon (Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ - Nguyễn Nhật Ánh).

Theo các cách dùng từ để đặt tên nhân vật như trên, luận văn đã khảo sát (không kể tên nhân vật là con người) trên tổng số 32 truyện (4 truyện dài, 28 truyện ngắn).

Kết quả như sau:

Bảng 2.3. Thống kê các cách dùng từ để đặt tên nhân vật trong truyện đồng thoại

Tên truyện Cách (a) Cách (b) Cách (c)

Dế Mèn phiêu lưu ký 56 9 0

Chuyến đi của Mày Mạy 59 3 0

Chèo Bẻo đánh quạ 36 0 0

Có hai con mèo ngồi bên cửa

sổ 2 1 3

Võ sĩ Bọ Ngựa 7 0 0

Dê và Lợn 9 0 0

Đám cưới chuột 4 0 2

Ba anh em 1 0 2

Cô Tò Vò xanh 7 0 0

Ba người bạn 0 3 0

Mơ ước 6 0 0

Cô Đồi Mồi thông minh 4 2 0

Biển khơi vẫy gọi 17 0 0

Xóm mới 4 5 0

Ngôi nhà bác Sên 11 0 0

Một bài học bổ ích 5 5 0

Tê Tê và Nhím 7 0 0

Bài học tốt 3 1 0

Mắt Giếc đỏ hoe 12 1 0

Những chiếc áo ấm 10 0 0

Những câu chuyện 20 0 0

Chuyện một hạt nhãn 6 0 0

Đêm biểu diễn 2 2 0

Chuyện một hòn đá 2 1 0

Trai và Ốc Gai 5 0 0

Hai cách nghĩ 5 0 0

Áng Mây 3 0 0

Tấm áo đẹp nhất 10 0 0

Chị Tẩy và em Bút Chì 2 1 0

Chuyện vui về chú Ếch Cốm 6 0 0

Cô bé Mảnh Khảnh 4 0 1

Bé Rơm 1 0 0

Tổng số: 368 từ (ngữ) 326 (88,58 %) 34 (9,23 %) 8 (2,19 %) Theo bảng 2.3, ta thấy từ ngữ gọi tên nhân vật trong truyện đồng thoại phần lớn là từ chỉ sự vật, hiện tượng (chiếm 88,58 %). Có thể thấy, chúng vừa có vai trò định danh nhân vật vừa là lớp từ vựng đóng vai trò triển khai nội dung truyện. Sở dĩ có thể nói như vậy vì lớp từ này có mối liên quan mật thiết đến các từ ngữ đi kèm khi diễn tả các lớp nội dung trong tác phẩm. Điều này không thể có trong trường hợp từ chỉ tên nhân vật không có ý nghĩa khái quát (như từ chỉ tên người chẳng hạn).

Ta hãy so sánh:

(22) Anh Chèo Bẻo lượn vào khoảng không. Anh liệng nghiêng. Đôi cánh chéo xuống. Anh múa. Vừa bay vừa múa vừa hát từng nhịp. Huy…huy… Anh vui vì nhà đã làm xong. Anh vui vì chị đương nằm . Anh vui… (Chèo Bẻo đánh Quạ, tr.19)

Trong (22), các từ lượn, liệng, đôi cánh, huy…huy, ổ có quan hệ về nghĩa với từ Chèo Bẻo, chúng là từ diễn tả hoạt động, bộ phận cơ thể, tiếng kêu, nơi ở của một động vật có tên là chèo bẻo. Trong khi đó, nếu từ chỉ tên nhân vật ở người như trường hợp sau đây không có liên quan gì về mặt ngữ nghĩa với các từ khác:

(23) Mấy lần đổ nước không thấy dế bò ra đã toan đi nhưng Nhớn cứ khăng khăng. (Dế Mèn phiêu lưu ký, tr. 14)

Trong (23), từ và các từ như đổ, toan, đi… không có gì liên quan về mặt ngữ nghĩa vì từ là từ ngẫu nhiên, không phải là từ có ý nghĩa khái quát.

Hình thức viết hoa của từ gọi tên nhân vật biến lớp từ này về mặt lâm thời trở thành từ chỉ tên riêng, tạo cho nó tư cách để phân biệt với các từ chỉ tên gọi cá thể khác trong cùng một câu chuyện. Ví dụ: Chuột Nhắt là một cá thể so với Chuột Chù,

Chuột Cống (Đám cưới chuột). Tuy nhiên, do lấy danh từ chung làm tên riêng cho nhân vật mà vẫn giữ lại nghĩa khái quát nên các lớp từ này không thể có được phẩm chất của từ chỉ tên riêng đúng nghĩa. Ngoài ra, theo quan sát bước đầu của chúng tôi, các nhân vật chính thường được chăm chút khi đặt tên nên có được cái tên gần với từ chỉ tên riêng nhất, còn tên của các nhân vật phụ bị lẫn vào tên chung của loài.

(24) Bốn bác Cua núi đen sì như bốn cái xe bọc sắt to kềnh, múa lên những chiếc càng rất lớn. (Dế Mèn phiêu lưu ký, tr.66)

Bốn nhân vật Cua núi này cùng có một tên chung do không có nhu cầu cần cá thể hóa.

Vừa đóng vai trò làm tên riêng nhân vật vừa giữ lại nghĩa khái quát để tham gia vào vốn từ vựng nhằm diễn tả nội dung câu chuyên, từ chỉ tên nhân vật trong truyện đồng thoại có thể nói là khá độc đáo so với từ cùng loại trong các thể loại văn học khác.

2.1.3.2. Lớp từ ngữ đặc trưng

Cùng thuộc thể văn tự sự nhưng truyện đồng thoại có điểm khác biệt so với truyện ngụ ngôn. Miêu tả với nó là một khâu bắt buộc. Ngụ ngôn có sự tiết chế miêu tả đến mức tối đa nhưng đồng thoại phải sinh động hóa, cụ thể hóa tình tiết. Do đó, truyện đồng thoại cần phải có hệ thống từ vựng phục vụ đắc lực cho việc miêu tả, đó là lớp từ ngữ đặc trưng. Khảo sát những lớp từ có khả năng này, chúng tôi nhận thấy vị từ và từ láy có vai trò rất quan trọng.

2.1.3.2.1. Lớp từ ngữ đặc trưng do vị từ đảm nhiệm

Theo Đinh Văn Đức, cần phải làm rõ khái niệm đặc trưng. Theo đó, sự vật trong thế giới có hai thuộc tính cơ bản là tồn tại trong sự vận động và trong sự đa dạng.

Thuộc tính vận động tạo cơ sở khách quan cho việc hình thành động từ. Còn thuộc tính đa dạng - cái khiến cho các sự vật tự thân không hề giống nhau và cũng không giống nhau trong sự tri nhận của chủ thể- tạo cơ sở cho việc hình thành tính từ [28].

Từ cơ sở khách quan trong sự hình thành từ loại tính từ, ta cũng thấy được chức năng cơ bản của tính từ là chỉ ra những nét đặc trưng của sự vật, có liên quan trực tiếp đến việc miêu tả sự vật, chẳng hạn về màu sắc (xanh, đỏ, vàng,…), về không gian, trọng lượng, khối lượng (xa, gần, lớn bé, nặng, nhẹ,…), về hình thể (vuông, tròn,

cong, thẳng,…). Ngoài ra, ý nghĩa tính từ còn bao gồm những đặc trưng hình thành theo nhận thức chủ quan của con người trong quan hệ với đối tượng như buồn, vui, yêu, ghét, khinh, trọng, thuận lợi, khó khăn,….

Cần lưu ý, trong tiếng Việt, xét về mặt chức năng, giữa động từ và tính từ rất gần gũi nhau. Theo Cao Xuân Hạo, tốt nhất là gộp chung chúng thành nhóm vị từ.

Trong tiểu mục này, chúng tôi dựa vào quan niệm khoa học của tác giả này.

Như nhiều thể loại tự sự khác, truyện đồng thoại cũng dùng rất nhiều vị từ để khắc họa sự vật, hiện tượng.

(25) Đang đà khoái chí, Bút chì bỗng nhận thấy bức tranh con cừu tuyệt đẹp treo trên tường. Con cừu hiền lành đang đứng ngẩn ngơ trên đồng cỏ xanh rờn đầy hoa vàng rải rác như bướm bay. Một ý nghĩ tai quái lóe trong đầu Bút chì. Nó nháy mắt tinh nghịch, rón rén đến bên bức tranh, rồi tỏ vẻ cương quyết, nó vung tay vẽ loằng ngoằng lên bức tranh. Nó cho đôi mắt cừu trở nên long lanh dữ tợn. Thêm vào trán cừu đôi sừng nhọn hoắt. Chú cừu trong tranh bỗng dậm chân đầy phẫn nộ, như phản đối trò chơi độc ác của Bút chì. (Chị Tẩy và em Bút chì, tr.22)

Trong đoạn văn (25), ta thấy có các vị từ chỉ màu sắc (xanh rờn, vàng), chỉ hình khối (nhọn hoắt), chỉ đường nét (loằng ngoằng), chỉ mức độ (rải rác), vị từ chỉ tâm lí (hiền lành, cương quyết, dữ tợn, độc ác, tinh nghịch, phẫn nộ), chỉ trạng thái (ngẩn ngơ, rón rén). Nhờ có lớp từ này, hình ảnh nhân vật Bút chì và chú cừu hiện lên sống động, cụ thể hơn nhiều.

Lớp vị từ được sử dụng rất nhiều trong truyện đồng thoại là vị từ chỉ tính chất tuyệt đối. Những vị từ kiểu này nêu những đặc trưng mang tính cực cấp. Vì vậy, chúng thường được sử dụng khi muốn diễn tả sắc thái cụ thể của sự vật trong tư duy người Việt. Những vị từ loại này xuất hiện rất nhiều trong truyện đồng thoại, kiểu như mới tinh, nhẵn thín, vuông bạnh, cong hoắt,…

Khảo sát lớp vị từ này, luận văn thu thập được một số lượng như sau:

(a) Nhiều nhất là nhóm từ chỉ màu sắc, sắc độ (103 từ). Trong đó:

- Chỉ màu xanh: xanh rờn, xanh mờ, xanh rì, xanh xanh, xanh rực, xanh biếc, xanh tươi, xanh ngắt, xanh trong, xanh mởn, xanh đen, xanh thẫm, xanh om, xanh mát, xanh đậm, xanh nõn, xanh thẳm, xanh non, xanh mướt, xanh lè. (20 từ)

- Chỉ màu trắng: trắng muốt, trắng nõn, trắng băng, trắng bạch, trắng tinh, trắng xóa, trắng bong, trắng trẻo, trắng bạc, trắng xám, trắng phau, trắng mỡ, trắng ngần, trắng mờ, trắng toát, trắng mịn, trắng hếu, trắng đục, trắng toát. (19 từ)

- Chỉ màu đen: đen nhánh, đen bóng, đen sì, đen xám, đen ngòm, đen loáng, đen nháy, đen kịch, đen tuyền, đen láy, đen sạm, đen mượt, đen sẫm, thâm đen. (14 từ)

- Chỉ màu vàng: vàng óng, vàng tươi, vàng rượi, vàng nghệ, vàng ngà, vàng chóe, vàng hoe, vàng nhòe, vàng hây, vàng mẩy. (10 từ)

- Chỉ màu đỏ: đỏ hoe, đỏ tươi, đỏ tía, đỏ rực, đỏ chót, đỏ ối, đỏ ngòm, đỏ hắt, đỏ bóng, đỏ kè, đỏ hây. (11 từ)

- Chỉ màu tím: biếc tím, tím biếc, tím ngát, thâm tím, tím ngắt. (5 từ) - Chỉ màu hồng: hồng nhạt, hồng phấn. (2 từ)

- Chỉ màu xám, nâu: xám nhạt, xám mờ, nâu sẫm. (3 từ)

Vị từ chỉ sắc độ (19 từ) như: trong xanh, trong vắt, trong suốt, trong veo; tối om, tối sẫm, tối sầm, tối om om, tối mù, tối mịt; sáng chóe, sáng trong, sáng loáng, sáng quắc, sáng bạch; óng mượt, mượt óng; mẫm bóng, nhẵn bóng; bóng mờ, bóng nhẩy.

Đọc truyện đồng thoại ta dễ dàng tìm thấy nhiều vị từ chỉ tính chất tuyệt đối chỉ màu sắc như:

(26) Từ vấu tre trổ ra một cành lá xanh thẫm. (Chèo Bẻo đánh Quạ, tr.36)

(27) Tò Vò xanh là một cô gái khá xinh. Cô có tấm thân gọn gàng xanh biếc một màu. (Cô Tò Vò xanh, tr.5)

(28) Bụng trắng, lưng xanh thắt đáy, đôi cánh nuột nà biếc tím. Chân lão đi đôi giày đỏ hắt. (Dế Mèn phiêu lưu ký, tr. 95)

(29) Đối với các cô không có gì đáng nghĩ, vì mỗi cô đã làm đủ kết quả, vác về những bó củi cành với những cụm tầm xuân hoa phơn phớt hồng nhạt. (Dế Mèn phiêu lưu ký, tr. 115)

(30) Rô phơi nắng nhiều nên đen sạm lại. (Mắt Giếc đỏ hoe, tr.9) (31) Bờ bụi hiện ra sáng quắc. (Đêm biểu diễn, tr.31)

(32) Nước trong veo, trông rõ những thân rong tóc tiên, rong đuôi mèo mềm

mại, đong đưa uốn lượn. (Chuyện vui về chú ếch Cốm, tr.28)

(33) Bóng cá Chuối đen loáng cả dòng nước, nó lướt vào đến trước mặt thì dòng nước đương trong vắt bỗng tối sầm như nền trời cơn mưa. (Dế Mèn phiêu lưu , tr. 65)

Từ xanh thẫm trong (26) thiên về độ tối trong khi đó xanh biếc trong (27) lại có vẻ pha sáng nhiều hơn. Các từ biếc tím, đỏ hắt (28), hồng nhạt (29), đen sạm (30), sáng quắc (31), trong veo (32), đen loáng, trong vắt, tối sầm (33) đều mang đến nét nghĩa mới rất cụ thể so với nét nghĩa ở hình vị gốc của nó. Theo G. Hele và J.

Makrix[13, tr.267], màu sắc do ba thành tố tạo nên: thành tố “sắc” do độ dài của sóng ánh sáng quyết định (thành tố chính), thành tố cường độ do sự pha trộn của “sắc” với màu trắng, thành tố độ rõ do độ chiếu sáng quy định (thành tố phụ).

Các màu phái sinh là các màu đồng nhất về “sắc” nhưng các thành tố phụ thì khác nhau. Cho nên, việc sử dụng những vị từ chỉ tính chất tuyệt đối chỉ màu sắc có tác dụng cụ thể hóa đặc trưng sắc màu ở sự vật, tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ.

Theo Đỗ Hữu Châu, đó có thể là những ấn tượng về diện tích, hình khối, độ dày đặc (xanh om, xanh um, xanh rì, đen kịt,…), về xúc giác (vàng óng, vàng mượt, đỏ loét,…), về những cảm giác gây nhức nhối hoặc khoan khoái về mặt sinh lý (xanh lè, vàng khè, trắng hếu, xanh biếc, trắng nõn,…) [13, tr.267]. Do đó, việc sử dụng các vị từ dạng này có tác dụng lớn về mặt tiếp nhận cho độc giả, khiến hình ảnh miêu tả có phần trung thực hơn, mang tính hình tượng và biểu cảm cao hơn.

Việc sử dụng vị từ chỉ màu sắc dạng này trong truyện đồng thoại đem lại những trang văn lung linh sắc màu; sự vật được miêu tả thêm phần cuốn hút, đặc biệt là đối với trẻ thơ. Thế giới sắc màu dường như được mở rộng ra với rất nhiều những “màu sắc phái sinh” trong cái nhìn của các nhà văn đồng thoại. Xin đơn cử một số đoạn trong truyện ngắn Tấm áo đẹp nhấtcủa Trần Hoài Dương:

(34) Gần hơn, những cánh rừng xanh thẫm, xen lẫn những mảng vàng tươi hoặc đỏ tía của những vòm cây đang thay lá. (…) Ở một góc rừng kia có những thân cây cổ thụ lực lưỡng màu nâu sẫm, bên trên là những vòm lá vàng rượi. (…)Chim thiên đường màu hồng nhạt đang làm tổ lưng chừng một thân cây xù xì, nơi có mấy cành cụt nhô ra. (…) Sau khi dùng mỏ gài chiếc lá vàng tươi vào một góc trống,

Một phần của tài liệu đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng việt (Trang 45 - 68)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(132 trang)