CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI XÉT TỪ CẤP ĐỘ CÂU TRỞ XUỐNG
3.1. Đặc điểm kết cấu của văn bản đồng thoại
3.1.1. Kết cấu chung của văn bản đồng thoại
Thông thường, giống như kết cấu thường gặp của văn bản tự sự, ngoài phần đầu đề, kết cấu của một văn bản truyện đồng thoại cũng chia làm ba phần: phần mở đầu, phần triển khai và phần kết thúc.
3.1.1.1. Đầu đề hay còn gọi là tiêu đề
Đầu đề của văn bản đồng thoại có chức năng nêu nội dung cô đọng nhất của văn bản dưới nhiều dạng thức khác nhau.
Trong 76 đầu đề tác phẩm được luận văn chọn để khảo sát có đến 59 đầu đề được đặt theo hướng nêu đề tài, ví dụ: Cô Tò Vò xanh, Dế Mèn phiêu lưu ký, Chuyến đi của Mày Mạy, … ; 12 đầu đề được đặt theo hướng nêu chủ đề, ví dụ: Mơ ước, Lòng mẹ, Bài học tốt, … ; 5 đầu đề được đặt theo lối kết hợp đề tài và chủ đề, ví dụ: Cô Đồi Mồi thông minh, Tấm áo đẹp nhất, Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ,...Cách đặt đầu đề theo hướng nêu đề tài là dễ hiểu nhất, vì nó liên quan trực tiếp,
có mối quan hệ hiển ngôn với nội dung truyện. Cho nên, cách thức này được sử dụng nhiều. Còn cách đặt đầu đề theo lối nêu chủ đề hay lối kếp hợp đề tài – chủ đề ít được dùng bởi chúng theo lối gián tiếp (thường là theo phép ẩn dụ), có thể phải đọc văn bản và phải suy nghĩ mới nhận ra.
Về mặt hình thức ngôn ngữ, đầu đề có thể cấu tạo là một từ, một cụm từ hay một câu. Xem bảng 3.1
Bảng 3.1 Kiểu cấu tạo đầu đề của truyện đồng thoại Kiểu cấu tạo đầu đề Số lượng Ví dụ
Định danh 1 từ 1 Mơ ước
1 cụm từ 61 Bài học tốt, Chú ong lười
Thông báo 1 câu 14 Biển khơi vẫy gọi
Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ
Dễ thấy, kiểu đầu đề là cụm từ chiếm đa số (62 đầu đề), đầu đề là một từ hay một câu ít dùng hơn. Tiêu đề có cấu tạo cụm từ có đặc điểm ngắn gọn, dễ nhớ và thường gọi tên nhân vật chính kèm theo một dấu hiệu đặc trưng. Các dạng tiêu đề cấu tạo bằng một câu: câu tường thuật (Chim Quyên dời tổ; Ếch xanh đi học), câu nghi vấn (Vì sao hũ mật lại vỡ?; Vì sao thế nhỉ?) có chức năng thông báo hoặc định hướng độc giả về chủ đề của truyện.
3.1.1.2. Phần mở đầu
Phần mở đầu của văn bản đồng thoại có thể bắt đầu theo một số cách khác nhau:
theo lối dân gian với cụm từ đặc trưng ngày xưa (Bài học tốt), có thể theo lối trò chuyện giữa người kể và bạn đọc (Chèo Bẻo đánh Quạ), nhưng đa phần là theo lối trực tiếp đi ngay vào nội dung câu chuyện. Tuy nhiên, chức năng phần mở đầu thường là:
- Nêu đối tượng, đặc trưng đối tượng.
- Giới thiệu hoàn cảnh không gian, thời gian, xuất xứ của đối tượng đó (các yếu tố không gian, thời gian có thể không phải lúc nào cũng đầy đủ)
- Gây sự chú ý
Sau đây là phần mở đầu của truyện Bài học tốt:
(149)Ngày xưa, Rùa có một cái mai láng bóng. Trên mai không có những vệt rạch ngang dọc như ta thấy ngày nay. Xưa kia, Rùa rất tự hào về cái mai của mình.
Mỗi buổi sớm, Rùa đưa mai ra phơi nắng. Ánh nắng trên mai Rùa sáng rực làm cái mai như tỏa hào quang (Bài học tốt, tr.3).
Phần mở đầu trên gồm các yếu tố sau: đối tượng của truyện kể (Rùa), đặc trưng của đối tượng (có cái mai láng bóng), thời gian (ngày xưa), không gian ( thiên nhiên nói chung: nắng). Không chỉ nêu những yếu tố đối tượng, không gian, thời gian, phần mở đầu còn định hướng về nội dung, tạo không khí giọng điệu, gây hiệu quả tâm lý (đầu đề truyện này gây thắc mắc ở người đọc về cái mai khác thường của Rùa, người đọc tự hỏi chuyện gì xảy ra, các yếu tố khác tạo nên không khí, đưa người đọc vào câu chuyện).
Phần mở đầu là cơ sở cho phần khai triển câu chuyện.
3.1.1.3. Phần khai triển
Đây là phần chứa nội dung trọng tâm của văn bản đồng thoại. Phần này có nhiệm vụ nêu các tình tiết, diễn biến của các sự kiện, các biến cố của câu chuyện.
Các biến cố, tình tiết (gọi chung là sự việc) của phần khai triển thường được tổ chức theo trật tự tuyến tính: sự việc nào xảy ra trước kể trước, sự việc nào xảy ra sau kể sau; sự việc là nguyên nhân kể trước, sự việc là kết quả kể sau, … các sự việc được xâu chuỗi với nhau, số lượng sự việc càng nhiều thì dung lượng tác phẩm càng lớn. Các sự việc không phải lúc nào cũng có vị trí, vai trò như nhau. Chúng có thể có quan hệ bao hàm, quan hệ song song, quan hệ nguyên nhân – kết quả, … Chúng có thể ở cùng một phần hay ở các phần khác nhau của văn bản. Chúng có thể là sự việc chính yếu hay chỉ là sự việc phụ trợ.
Việc sắp xếp các sự việc như thế nào một phần là do nguyên tắc thể loại quy định, một phần do ý đồ chủ quan của nhà văn để làm nổi bật tình huống, tính cách nhân vật và chủ đề của văn bản.
Phần khai triển của văn bản truyện Bài học tốt của Võ Quảng được tổ chức như sau (xem Bảng 3.2):
Bảng 3.2 Sơ đồ tổ chức phần khai triển của truyện Bài học tốt của Võ Quảng Các giai
đoạn Sự kiện khách quan (a)
Phản ứng (hành vi) (b)
Hệ quả (c) Lúc nảy
sinh ý định (I)
1 (An nhàn) Thích đi đây đi đó Tuyên bố:
Sống có nghĩa là đi…
Chuẩn bị
đi (II) 2 Mùa đông: cái rét nép trong bờ bụi cứ thổi vù vù làm buốt đến tận xương
Đợi đến mùa xuân (Chưa đi được)
3 Mùa xuân: nhiều hoa thơm cũng thú vị nhưng mưa phùn, gió bấc
Đợi đến mùa hè (Chưa đi được)
4 Mùa hè: nhiều quả chin thơm tho nhưng bụi cuốn mịt mù, nước lũ đổ ào ào
Đợi đến mùa thu (Chưa đi được)
5 Mùa thu: mây đùn tan biến, thấy lâu đài hiện ra lấp lánh như một hòn ngọc
Phải đến xem cho biết, chưa đến thăm lâu đài Rùa Vàng thì chết khó nhắm mắt
Ra đi
Trong cuộc đi (III)
6 Ngày 1, 2, 3, 4: như có ai đẩy sau lưng (sức đẩy mỗi ngày một giảm)
Ngày 1: chạy
Ngày 2: chạy chậm Ngày 3: đi
Ngày 4: đi chậm
(Cuộc đi được duy trì nhưng càng ngày càng chậm lại)
7 Ngày 5: Cái gì đẩy sau lưng biến mất, con đường hóa gồ ghề
Lê từng bước Bước chậm dần Dừng lại
(Cuộc đi dừng lại)
8 Mệt rồi (Tưởng tượng) chim Đại Bàng bay tới, mời lên, khẩn khoản năm lần bảy lượt
Chẳng thấy tăm hơi Đại Bàng đâu cả 9 Chỉ thấy chú Ngựa Hỏi: Chim Đại Bàng
đến chưa?, Ai đi thế cho ta?
(Được Ngựa giúp, chở một chặng)
10 (Ngựa không nhanh
bằng Đại Bàng) Muốn đi nhanh (Ta không muốn chậm trễ), đòi lên ngồi ở vó là chỗ
Được lên vó Ngựa ngồi (cuộc đi tăng
chạy nhanh nhất tốc) 11 (Ngựa chạy nhanh
như cơn lốc, nguy hiểm đến tính mạng)
(Gọi ngựa dừng lại) (Ngựa không nghe thấy, vẫn chạy), Rùa ngã văng ra, mai vỡ thành nhiều mảnh Chủ đề Khó khăn, gian nan Ngại khó, ngại khổ Cuộc đi thất
bại
Nhìn vào sơ đồ tổ chức phần khai triển của văn bản truyện Bài học tốt (xem phụ lục 2), ta thấy các tình tiết được sắp xếp theo các phần:
- Dựa theo tiến trình cuộc ra đi của Rùa (quan hệ thời gian) có các giai đoạn:
giai đoạn nảy sinh ý định, giai đoạn chuẩn bị và giai đoạn đi (hàng ngang của sơ đồ).
- Dựa theo các nhân tố tương hỗ lẫn nhau trong cuộc ra đi có các yếu tố: sự kiện khách quan, hành vi và hệ quả.
Theo quan hệ thời gian, sự việc nào xảy ra trước thì kể trước, sự việc nào xảy ra sau thì kể sau (từ trái sang phải, từ trên xuống dưới theo sơ đồ). Ví dụ: sự việc 2(a) – 3(a), 2(a) – 2(b).
Theo quan hệ nguyên nhân – kết quả, sự việc nào là nguyên nhân được kể trước, sự việc nào là kết quả được kể sau (từ trái sang phải theo sơ đồ), ví dụ: sự việc 2(a) – 2(b) (theo trục ngang), sự việc 4(a) – 4(b) (theo trục dọc).
Ngoài ra, các sự việc còn được tổ chức theo các nhân tố tương hỗ với nhau trong cuộc ra đi: sự kiện khách quan, hành vi, hệ quả. Cách tổ chức này làm nổi bật từng nhân tố, mâu thuẫn giữa các nhân tố và hệ quả từ sự mâu thuẫn đó. Cụ thể, các sự việc trong cột (a) góp phần làm nổi bật đặc trưng của hoàn cảnh ở đây là gian nan, khó khăn, các sự việc ở cột (b) đều tập trung khắc họa tính cách của Rùa: ngại khó, ngại khổ, các sự việc trong cột (a) đặt trong quan hệ đối kháng với các tình tiết trong cột (b). Các sự việc trong cột (c) (có sự việc được hiểu ngầm, không được biểu hiện ra bằng hình thức ngôn ngữ) là hệ quả từ mâu thuẫn giữa sự việc trong cột (a) và sự việc trong cột (b).
Từ cách tổ chức trên, ta có thể thấy được:
Sự kiện khách quan (tạo nên hoàn cảnh) có tác động đến hành vi của nhân vật.
Hoàn cảnh thuận lợi dẫn đến hành vi tích cực và hệ quả tốt (nhưng thuận lợi ở đây là
rất ít). Hoàn cảnh khó khăn dẫn đến hành vi tiêu cực (không chịu đi, nôn nóng, nóng vội) và hệ quả tồi (ở đây khó khăn là chủ yếu). Ta có thể thấy hoàn cảnh khó khăn đã triệt tiêu ý chí và điều khiển hành vi của nhân vật Rùa.
Với cách tổ chức sự việc như trên, tính cách nhân vật được nổi bật, hoàn cảnh được tô đậm và chủ đề truyện dần hé lộ.
Cách tổ chức phần khai triển như thế nào còn tùy thuộc vào ý đồ của nhà văn.
Tuy nhiên, đa phần nhà văn đồng thoại sắp xếp tình tiết trong phần triển khai theo trật tự tuyến tính và theo một số vấn đề chủ đạo đặt ra trong truyện như đã thấy ở trên.
3.1.1.4. Phần kết
Phần kết thúc là phần khép lại văn bản, làm cho văn bản mang tính hoàn chỉnh vì có thể coi, kết luận là dấu chấm cuối cùng của văn bản. Văn bản tự sự thường có hai cách kết thúc là kết đóng và kết mở. Truyện đồng thoại thường sử dụng kết thúc đóng. Trong cách kết thúc này, kết quả được giải quyết trọn vẹn, số phận nhân vật được thông báo rõ ràng, đồng thời, tác giả có thể đưa thêm phần nêu nhận xét, cảm tưởng về nhân vật hay câu chuyện nói chung.
Nếu Bài học tốt là truyện thuộc thể loại khác, ngụ ngôn chẳng hạn, câu chuyện có thể kết thúc sau phần khai triển. Và như thế, chủ đề truyện lúc này ẩn đi, người đọc có thể tự rút ra.
Đây là những câu cuối trong phần khai triển của truyện:
(150) Rùa dần dần tỉnh lại, khắp người như có hàng vạn kim đâm. Rùa mở mắt.
thật quá rùng rợn! Rùa đang nằm giữa vũng máu và cái mai bị vỡ ra nhiều mảnh!
Cách kết thúc như vậy còn dở dang, không thể thỏa mãn tâm lý trẻ em, đó là chưa kể ấn tượng sự việc quá ghê sợ, cho nên, nhà văn mới tạo ra cái kết như thế này:
(151) Cũng may, những mảnh vỡ sau đó lại lành. Nhưng những vết sẹo ngang dọc trên mai vẫn còn trông thấy. Cũng rất may, từ đó Rùa rút ra được bài học tốt.
Rùa đã quyết luyện tập cho mình có được tính kiên nhẫn luyện tập thành công và đã thắng trong cuộc chạy thi với Thỏ. Riêng về chuyện cái mai, mời các bạn hãy xem thật kỹ một con Rùa để biết chuyện tôi kể là có thật. (Bài học tốt, tr.7)
Phần kết này có nhiệm vụ:
- Thông báo số phận nhân vật: Rùa dần hồi phục, rút ra bài học, cố gắng tập
luyện và thắng Thỏ trong cuộc chạy thi.
- Hệ quả còn lại: mai Rùa còn những vết sẹo ngang dọc.
Trong tương quan với phần mở đầu, phần kết luận phải cho thấy tính trọn vẹn và chỉnh thể của văn bản. Cách kết thúc như trên tạo ra bố cục trọn vẹn, vừa giải thích sự tích vết sẹo trên mai rùa vừa rút ra được bài học ý nghĩa, có tác dụng động viên, giáo dục trẻ em.
Đa phần truyện đồng thoại có phần kết thúc như trên, đặc biệt là ở truyện đồng thoại ngắn. Trong truyện đồng thoại dài, kết thúc thường có khuynh hướng “mở”
hơn, sự việc chỉ có thể tạm coi là kết thúc nhưng nhà văn vẫn để ngỏ ở một khía cạnh nào đó, như phần kết Dế mèn phiêu lưu ký hứa hẹn sẽ có phần tiếp theo, Chèo Bẻo đánh Quạ cho biết cuộc chiến giữa Chèo Bẻo và Quạ chưa dừng lại, Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ vẫn để ngõ số phận của Mèo Gấu với vết thương lòng vì tình yêu tan vỡ … Đó là vì truyện đồng thoại dài thường khó gói gọn tất cả các tình huống vào một cái kết duy nhất, hơn nữa, chúng có thể hướng đến cả đối tượng độc giả trưởng thành nên phần kết có thể để ngỏ, khơi gợi suy nghĩ. Tất nhiên, nhận xét này chỉ có ý nghĩa tương đối. Để có sức thuyết phục hơn, ta cần khảo sát ngữ liệu lớn hơn.
Kết cấu 3 phần của văn bản đồng thoại là sự phân chia theo nội dung – cấu trúc văn bản. Ở một chiều khác, ta có thể thấy văn bản trình bày theo trật tự logic khách quan, có nghĩa là các lớp nội dung (các sự việc, hiện tượng, quá trình hoạt động) được kể theo tuần tự như chúng đã xảy ra trong thời gian và không gian thực tế, không có hiện tượng đan xen, tái hiện chồng chéo giữa hiện tại với quá khứ hay tương lai. Hình thức kết cấu theo cách thức như vậy phù hợp và tác động có hiệu quả cao nhất đến nhận thức, tâm lý của độc giả thiếu nhi. Xét theo trật tự logic khách quan và ý đồ nghệ thuật của người sáng tác, văn bản đồng thoại có thể được tổ chức theo những kiểu kết cấu sau: kết cấu chuỗi, kết cấu trùng điệp, kết cấu đối lập.