Xét về mặt phạm vi sử dụng

Một phần của tài liệu đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng việt (Trang 41 - 45)

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN ĐỒNG THOẠI XÉT TỪ CẤP ĐỘ CÂU TRỞ XUỐNG

2.1. Đặc điểm từ vựng

2.1.2. Xét về mặt phạm vi sử dụng

2.1.2.1. Lớp từ có phạm vi sử dụng phổ biến

Được viết ra nhằm mục đích phục vụ độc giả là trẻ em nên từ vựng trong truyện đồng thoại phải dễ hiểu và thông dụng. Tên gọi của lớp từ này cho thấy đây là lớp từ

mà mọi người, trong đó có trẻ em, ở mọi nơi, mọi lúc có thể sử dụng một cách rộng rãi.

Theo các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến : “Lớp từ này có khối lượng từ ngữ lớn nhất, và trong từ vựng của ngôn ngữ nào cũng vậy, nó đóng vai trò làm nền tảng. Nó cũng là cơ sở để thống nhất từ vựng và thống nhất ngôn ngữ dân tộc, đồng thời là tài sản chung để mọi thành viên trong dân tộc, trong xã hội sử dụng làm công cụ giao tiếp chung; bởi vì nó gọi tên cho tất cả sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình… thiết yếu nhất trong sự tồn tại của đời sống con người”

[18, tr.226].

Truyện đồng thoại sử dụng từ ngữ rất giản dị, dễ hiểu:

(10) Chim Cú bực mình lắm. Đôi mắt nó quắc sáng liếc một chớp qua bên phải.

À…cả một bầy Sên đang nhoài mình bên một rãnh nước. Chim Cú bước đến gần. Nó chưa kịp lên tiếng, cả bầy Sên đã rụt cổ hết vào trong vỏ. Chim Cú không còn nén được cơn giận đốt cháy ruột gan nó. Nó co một chân lên đá liên tiếp ba chú Sên lăn tõm vào dòng nước đen ngòm. (Ánh mắt trong đêm - Lưu Nghi)

(11) Khi hai con chuột chạy ngang qua lần nữa, mèo Gấu nhà ta vẫn chưa ra khỏi trạng thái đóng băng. Chú khẽ nhích tới trước trên những bước đi êm như bông, nhưng vẫn chưa nghĩ ra điều cần làm. Chú đang băn khoăn thăm dò các cảm xúc và cân nhắc các hành động, lòng không ngớt lạ lùng. (Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ, tr.51).

Trong hai đoạn văn (10), (11), ta thấy nhiều từ ngữ rất phổ biến trong cuộc sống hằng ngày như từ ngữ chỉ tên các loài vật chim Cú, bầy Sên, chuột, mèo; từ ngữ chỉ các bộ phận cơ thể như mắt, cổ, ruột, gan, chân; từ ngữ chỉ hành động, trạng thái, quá trình như liếc, nhoài, bước, rụt, lên tiếng, nén, chạy, thăm dò, băn khoăn, lạ lùng,…Những từ này nằm trong vốn từ vựng toàn dân.

Các từ cơ bản trong vốn từ vựng có phạm vi sử dụng phổ biến cũng là lớp từ chính được sử dụng trong đồng thoại, đa phần là các từ ngữ chỉ hiện tượng thiên nhiên như mưa, nắng, núi, sông,…; từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người: đầu, tai, mũi, chân, tay,…; từ chỉ loài vật, sự vật, hiện tượng gắn liền với đời sống như chó, mèo, chim, cá, nhà, cửa, sách, vở,…; từ ngữ chỉ tính chất của các sự vật như dài, ngắn, đen,

đỏ, tốt, xấu,…; từ ngữ chỉ những hoạt động thông thường như đi, đứng, cười, nói, ngủ, ăn, uống,…

Cũng giống như các thể loại văn học khác, truyện đồng thoại cũng lấy lớp từ vựng nói trên làm bộ phận nòng cốt. Có thể đối với người trưởng thành, đa phần từ vựng trong truyện đồng thoại không mấy xa lạ. Nhưng với trẻ em đang trong quá trình tích lũy vốn từ vựng thì những từ ngữ như vậy là một quá trình khám phá thực sự.

Nhìn một cách khái quát, không kể nội dung, cách thức miêu tả, sự phân bố của từ ngữ có phạm vi sử dụng phổ biến trong hầu hết các tác giả là khá thống nhất, đó là các lớp từ ngữ phổ biến sau:

(a) Lớp từ chỉ thiên nhiên nói chung và thế giới loài vật nói riêng như chó, mèo, lợn, bò, chim, cá, bướm, chuồn chuồn,…

Truyện Dế Mèn phiêu lưu ký có 1023 từ gọi tên các loài vật trên 124 trang (8.25 từ/trang), tương tự truyện Võ sĩ Bọ Ngựa có 286 từ trên 24 trang (11.91 từ/trang), truyện Biển khơi vẫy gọi (Viết Linh) chỉ có 10 trang sách nhưng có đến 126 từ (12,6 từ/trang)… Đáng chú ý đó là những từ rất quen thuộc gọi tên những con vật gần gũi trong cuộc sống người Việt.

(b) Lớp từ miêu tả hoạt động của loài vật như bay, lượn, liệng, tung cánh, phóng, lủi,…;

(c) Lớp từ chỉ màu sắc, hình dạng của loài vật cũng như cây cỏ như đỏ, xanh, trắng, đen,…; to, nhỏ, cao, thấp,…

(d) Lớp từ chỉ các đồ vật, sự vật gần gũi trong gia đình, trong trường học như chén, bát, ly, tách, tủ, bàn, ghế, giường,…; sách, vở, cặp, bút, thước,…

Lớp từ có phạm vi sử dụng phổ biến không hề xa lạ với trẻ em. Có thể nói, các em đã được tiếp xúc với lớp từ này ngay trong những năm đầu đời trong gia đình, trong trường học, ngoài xã hội. Đây là lớp từ cơ bản nhất làm nên hành trang cho trẻ lĩnh hội thông tin cơ bản khi tiếp xúc với truyện đồng thoại, qua đó mà tăng cường vốn từ của mình.

2.1.2.2. Lớp có phạm vi sử dụng hạn chế

Với sự lưỡng phân này, có thể tiếp tục khảo sát giá trị thẩm mỹ của các lớp từ

vựng có phạm vi sử dụng hạn chế như tiếng lóng, từ nghề nghiệp, biệt ngữ,… Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, các lớp từ vừa kể, do nhiều lí do khác nhau, chúng xuất hiện không nhiều trong truyện đồng thoại. Do vậy, tại đây luận văn chỉ tập trung khảo sát lớp từ địa phương.

Trong khi ở các thể loại văn học khác, sự xuất hiện của từ địa phương mặc dù không phải là tất yếu nhưng đôi khi rất quan trọng. Ta không thể hình dung Sơn Nam khắc họa bức tranh cuộc sống người dân Nam Bộ như thế nào nếu không sử dụng ngôn ngữ hằng ngày của họ. Ta cũng không thể có nhà văn Hồ Biểu Chánh nếu không có những trang tiểu thuyết đậm chất ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ Nam Bộ.

Việc dùng từ địa phương trong truyện ngắn, tiểu thuyết hay kịch là không thể tránh khỏi khi nhà văn muốn xây dựng nhân vật hay vẽ nên bản sắc của một vùng đất nào đó. Đấy là vì đa phần nhân vật trong truyện ngắn, tiểu thuyết, hay kịch đều là con người cụ thể, sinh động, thường xuất hiện trong không gian, thời gian cụ thể. Chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một phụ nữ nông thôn miền Bắc Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, ông Năm Hên trong Bắt sấu rừng U Minh Hạ của Sơn Nam là một nông dân Nam Bộ những năm đầu thế kỉ XX. Tất cả những điều trên giúp chúng ta có thể định vị đa phần nhân vật văn học trong các thể loại văn học khác trong không gian, thời gian nhất định, nhưng thủ pháp đó là không cần thiết đối với nhân vật trong truyện đồng thoại vì chúng phần lớn là loài vật, đồ vật.

Lý do trên lý giải vì sao truyện đồng thoại không sử dụng nhiều lớp từ này. Việc sử dụng từ địa phương trong truyện đồng thoại chỉ có thể được giải thích từ thói quen sử dụng ngôn ngữ của mỗi nhà văn vì suy cho cùng họ đều gắn bó với một vùng miền nào đó. Cho nên, tác phẩm của họ phảng phất dấu ấn ngôn ngữ vùng miền. Tô Hoài sử dụng các từ phương ngữ Bắc Bộ như giăng, ốm, tớ… (trong ngôn ngữ toàn dân là trăng, bệnh, tôi). Nguyễn Nhật Ánh sử dụng ba, thiệt, nè…(trong phương ngữ Bắc là bố, thật, này).

(12) Ông Giăng hét gọi bọn Dê và Lợn (Dê và Lợn, tr.50)\

(13) Chúng mình chả nên nuôi một thằng dế ốm. (Dế Mèn phiêu lưu ký, tr.27) (14) Chẳng phải đi tìm đâu, tớ đây mà! (Chèo Bẻo đánh Quạ, tr.54)

(15) Mướp là con mèo đi lạc nhưng nó thiệt là tài giỏi. (Có hai con mèo ngồi

bên cửa sổ, tr.24)

(16) Quạ đó, ba! (Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ, tr.179)

(17) Tao nấp trong kẹt cửa nhìn ra, thấy gã mèo khóc lóc xin mày tha mạng nè!

(Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ, tr.77)

Rõ ràng là, sự hiện diện của từ địa phương trong truyện đồng thoại không mang tính đặc trưng về mặt thể loại mà chỉ tạo ra màu sắc văn phong cho mỗi nhà văn mà thôi. Tuy nhiên, trong bối cảnh của truyện, ví dụ như miền Bắc trong truyện đồng thoại của Tô Hoài, miền Nam trong truyện đồng thoại của Nguyễn Nhật Ánh, các từ ngữ địa phương cũng góp phần hình thành nên phong vị của một vùng đất trong truyện.

Một phần của tài liệu đặc điểm ngôn ngữ truyện đồng thoại tiếng việt (Trang 41 - 45)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(132 trang)