CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CẢM HỨNG TRỮ TÌNH - SỬ THI TRONG THƠ LÊ
2.3. N ội dung cảm hứng trữ tình - sử thi trong thơ Lê Anh Xuân
2.3.1. C ảm hứng về quê hương đất nước
Với Lê Anh Xuân, quê hương đất nước vừa khách thể về cảm nhận vừa đóng vai trò chủ thể khơi dòng cảm xúc. Thơ Lê Anh Xuân, trước hết là thơ của một con người sống và viết với tất cả những gì chân thực nhất, thiết tha nhất nơi lòng mình mà ông muốn gửi trọn cho đất nước quê hương.
• Quê hương đất nước trong ký ức và nỗi khát khao.
Đọc thơ Lê Anh Xuân, nhà phê bình Hoài Thanh đã rất tinh tế khi cho rằng: "Chúng ta sung sướng được gặp lại những hạt ngọc của ký ức" [80, tr.39]. Cảm hứng trữ tình sâu đậm nhất về quê hương trong thơ Lê Anh Xuân có lẽ cũng là quê hương trong ký ức. Thơ Lê Anh Xuân trĩu nặng lòng thương nhớ và chứa chan khát vọng trở về. Đành rằng thơ viết về quê hương không bao giờ thiếu nhưng ở Lê Anh Xuân, người đọc vẫn cảm thấy có cái gì đó rung cảm đặc biệt, trữ tình đặc biệt. Đọc thơ ông ta thấy ký ức về quê hương thực sự trở thành dòng chảy của cảm hứng, dòng chảy ấy dạt dào trong tập Tiếng gà gáy, tràn sang cả tập Hoa dừa và đọng lại ở Trường ca Nguyễn Văn Trỗi dưới dạng ký thác. Những ký ức trong thơ Lê Anh Xuân luôn hồn nhiên, tươi tắn, vì đó là ký ức của tuổi thơ và vì người làm thơ vẫn còn giữ
nguyên được cái tươi hồn nhiên trong sáng. Nỗi nhớ của Lê Anh Xuân rất cụ thể, hình ảnh quê hương thời thơ ấu hiện về như cơn mưa đầu mùa:
Ôi tuổi thơ, ta dầm mưa ta tắm
Ta lội tung tăng trên mặt nước mặt sông Ta lặn xuống, nghe xa vang tiếng sấm Nghe mưa rơi tiếng ấm, tiếng trong.
(Nhớ mưa quê hương).
Có thể nói, trở về với quê hương trong ký ức, trở về với tuổi thơ là nét nổi bật trong sáng tác nghệ thuật của Lê Anh Xuân. Những kỷ niệm thời thơ ấu cứ đi đi về về trong thơ ông với tất cả vẻ thi vị, trữ tình của nó. Lê Anh Xuân nhớ quê hương từ những cái nhỏ nhặt nhất trở đi.
Những cái đó đối với ông hết sức gần gũi và đáng yêu: "Con đường làng cát lún chân em",
"Con sông chảy trước nhà em", "Hàng dừa con lá dừa chấm tóc", "mấy lu nước ", "màu xanh lá dừa". Sự đột xuất vươn bay trong thơ Lê Anh Xuân cũng chính ở những cái nhỏ nhặt ấy, ông biết gắn vào những sự kiện còn nóng bỏng ý nghĩa thời sự, đồng thời luồn vào đấy hơi thở tình cảm chân thật của mình:
Khi anh đi dưới bóng dừa xanh Anh có thấy bàn chân anh dịu mát
Anh nhớ hôn dùm tôi lên từng khuôn mặt Của Má của Em đang đánh giặc ngày đêm Ra phía sau vườn anh thử nhìn xem
Mấy lu nước còn đầy hay cạn
Trên thân dừa có bao nhiêu vết đạn.
(Gởi anh Giang Nam)
Không riêng gì những bài thơ được sáng tác trên Miền Bắc, Lê Anh Xuân mới "muốn trở lại tuổi thơ" mà khi đã thực sự sống giữa lòng quê nội, nhà thơ vẫn không nguôi nhớ về thời thơ ấu. Trên thực tế, thời gian cuộc đời chỉ đi mà không trở lại, không ai có thể quay ngược vòng tạo hóa. Thế nhưng trong ký ức, trong nghệ thuật thì trở về tuổi thơ tức là trở về với quê cha đất tổ, trở về với nơi ta cất tiếng khóc chào đời. Kỷ niệm tuổi thơ bao giờ cũng đẹp, êm
59
đềm, hồn nhiên; quê hương trong tâm hồn tuổi thơ bao giờ cũng sâu sắc, in đậm dấu ấn theo suốt một đời người:
Ôi những chiếc thuyền mo cau Đã chở tuổi thơ ra biển cả...
Ôi chiếc thuyền mo cau Đang cùng ta đi đánh giặc
(Dòng sông tuổi nhỏ)
Lê Anh Xuân luôn đan xen giữa quá khứ êm đềm, đẹp đẽ với hiện tại gian khổ, anh hùng của quê hương mình. Vì thế, thơ ông dào dạt, chan chứa tình yêu quê cha đất tổ bằng một thứ tình yêu trong sáng, hồn nhiên, không gợn chút quằn quại đau đớn. Nỗi nhớ quê trong thơ ông không lạc lõng mà luôn gắn bó với những cái lớn lao hơn: quê hương, Tô quốc, nhân dân, cách mạng. Tập thơ Tiếng gà gáy có nỗi lòng da diết thấm sâu nhưng cũng có cả âm hưởng hào hùng, vang dậy :
Có lúc bỗng phong ba dữ dội Mưa đổ ào như thác dồn trăm lối Giấc mơ xưa có chớp giật sấm gầm,
Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hóa mưa giông
Sau đồng khởi Bến Tre, với sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, phong trào cách mạng ngày càng phát triển rộng khắp và mạnh mẽ. Cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân cũng trở nên sôi động, bùng cháy hơn. Bên cạnh những dòng thương nhớ đầy hoài niệm là khí thế tiến công bắt đầu trỗi dậy trên quê nhà:
Bến Tre ơi dừa xanh soi bóng Thuyền tuổi thơ rẽ sóng năm nào Nay nghe đã căng buồm "giải phóng"
Cờ mít tinh lồng lộng trên cao.
(Những dòng sông anh hùng)
Phong trào cách mạng trên quê hương càng phát triển thì khát vọng trở về trong thơ Lê Anh Xuân cũng bùng cháy theo. Có thể nói, càng về cuối tập Tiếng gà gáy cảm hứng trở về
hầu như choán hết hồn thơ Lê Anh Xuân. Ở đây có môtíp hóa thân. Nhà thơ muốn "hóa thành sông" để cùng bà con quê hương đi tranh đấu (Những dòng sông anh hùng) và cũng muốn hóa thành sông để "chảy trước nhà em" thật trữ tình, thơ mộng (Anh là con sông chảy trước nhà em):
Anh là con sông chảy trước nhà em Em có nghe sóng vỗ ngày đêm...
Anh vẫn bên em. Em có nghe không Tiếng sóng vỗ - tiếng lòng anh sâu thẳm
Nhà thơ hóa thân đồng nghĩa với hành trình trở về, trong tâm khảm Lê Anh Xuân luôn vang vọng tiếng gọi của quê hương. Thật khó phân biệt được trạng thái thức - ngủ, khi toàn bộ đời sống tinh thần của nhà thơ đều thuộc về quê hương:
Đã nhiều đêm ta không ngủ được Ta nghe tiếng chèo ghe mát nước Thấy mình đang ở giữa quê hương Cùng bà con tấp nập lên đường.
Tất nhiên khát khao trở về là cốt để được hành động cách mạng, để được cầm súng chiến đấu giải phóng quê hương. Thơ Lê Anh Xuân luôn ngân vọng điệp khúc trở về: Ta muốn về quê nội; Ta muốn trở lại tuổi thơ; Ta muốn nằm trên mảnh đất ông cha: Nghe mưa đập cành tre, nghe mưa rơi tàu lá... Càng ngày niềm khát khao ấy càng thôi thúc, giục giã: "Ôi ta thèm được tay cầm khẩu súng / Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè" hoặc: "Bến Tre, Bến Tre mảnh đất quê cha /Đang gọi ta về tay cầm chắc súng" (Về Bến Tre). Và cũng từ khát vọng được cầm súng mà thơ Lê Anh Xuân trở nên khỏe khoắn, sôi nổi bên cạnh cái êm đềm, tươi mát. Ông muốn luyện sao cho ngòi bút của mình có thêm sức chiến đấu và sức mạnh khái quát.
Có khi cảm hứng về quê hương đất nước lại được Lê Anh Xuân ký thác vào nhân vật trữ tình. Tuy cách biểu hiện có khác đi nhưng trước sau, nguồn cảm hứng ấy vẫn được vọng về từ ký ức, qua ký ức. Đó là nỗi nhớ quê của anh Trỗi trong Trường ca Nguyễn Văn Trỗi. Ở trường ca này, Lê Anh Xuân diễn tả rất sinh động đến não nùng những hoài niệm của nhân vật anh hùng đối với quê hương mình. Có lẽ tình yêu quê hương đất nước, những hoài niệm sâu thẳm
61
ấy đã góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần để anh Trỗi đấu tranh không khoan nhượng với quân thù và sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng:
Xa xăm ký ức hiện về
Quảng Nam mưa nắng trời quê dãi dầm Xa Đà Nẵng đã mười năm
Mà lòng anh vẫn nghe thầm tiếng kêu
Nhìn chung, cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân được hiện lên khá đậm nét qua ký ức, hoài niệm và nỗi khát khao. Có điều, hoài niệm chỉ là hoài niệm và cũng chẳng có ý nghĩa gì lớn lao nếu chủ thể trữ tình chỉ đắm mình trong nỗi nhớ triền miên, bất lực. Lê Anh Xuân thì không thế, trong dòng hồi ức của ông, quê hương đất nước hiện về như một thần tượng vừa trữ tình, kỳ vĩ lại vừa rất chung thủy và cũng rất riêng. Thần tượng ấy luôn trỗi dậy, thôi thúc nhà thơ cần phải dấn thân, cống hiến; cần trở về với mảnh đất ông cha. Và nhờ vậy mà nhận thức của nhà thơ về Tổ quốc mình cũng ngày càng mở rộng và sâu đậm hơn.
• Quê hương đất nước từ hành động dấn thân, cống hiến.
Lê Anh Xuân khát khao không chỉ để mà khao khát, với ông, khát khao luôn đi liền với hành động dấn thân, cống hiến. Con người ấy thường tự trăn trở, tự quan sát, tự soi mình để sống sao cho xứng đáng với quê hương, làm gì cho quê hương:
Sao em chết mà ta còn sống
Ta đang nghe máu đọng trong tim Quê hương đang nước sôi lửa bỏng Lẽ nào ta lại sống bình yên?
(Gửi Bến Tre)
Cuối năm 1964, Lê Anh Xuân tự nguyện Trở về quê nội đúng vào lúc lửa chiến tranh đang rực cháy trên quê nhà. Có thể nói, kể từ khi trở về với quê hương anh hùng, được trực tiếp chiêm ngưỡng và chiến đấu, cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân đã phát triển lên một tầm vóc mới, mang một sắc diện mới. Nếu ở tập Tiếng gà gáy, quê hương vừa là hoài niệm, thiết tha trong xa cách; còn là nhớ nhung, tưởng tượng thì đến tập Hoa dừa, cảm hứng ấy trở nên nóng bỏng khói lửa cuộc đời, phơi phới, đắm say và nồng nàn sắc màu sử thi hơn.
Cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân được xây dựng trên sự mến phục và niềm tự hào. Quê hương với người yêu nước tự bao giờ cũng đẹp. Nhưng quê hương trong mắt Lê Anh Xuân lại càng đẹp hơn bởi mảnh đất ấy đã lớn lên trong đau thương, trong chiến đấu. Sau hơn mười năm trở lại, nhà thơ vồ vập, đắm say trước sức sống dẻo dai mãnh liệt của quê hương mình:
Ôi quê hương xanh biếc bóng dừa Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại Quê hương ta tất cả vẫn còn đây Dù người thân đã ngã xuống đất này
(Trở về quê nội)
Thật khó nói hết tình cảm của tác giả đối với đất mẹ quê hương. Dòng cảm hứng trong thơ Lê Anh Xuân cũng có thêm chiều sâu trữ tình mà trước đó chưa có. Trở về quê nội, nhà thơ đi chân đất, cho chân mình ngập trong bùn đất, bước trên những chồi non nhọn sắc mới mọc sau trận bom na-pan, để sống cái cảm giác trực tiếp gắn bó với đất, để nghe hơi thở ấm áp của đất, nghe thấm vào mình sự sống của đất mẹ quê hương. Trên đất mẹ, những vết chân nối tiếp nhau, vết chân của nhà thơ hồi nhỏ đã lẫn vào trong vết chân của anh bộ đội, của em giao liên ngày nay. Và giờ đây, bước chân của nhà thơ lại hòa vào bước chân của bao người anh hùng mới xuất hiện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cứ thế, chiều sâu trữ tình trong thơ Lê Anh Xuân bao giờ cũng gắn chặt với chất giọng hùng ca:
Đất là mẹ của ta. Ôi ta yêu mẹ nhất Mẹ đã đẻ ra lớp lớp những anh hùng Mẹ nhớ mặt từng đứa con đã khuất Mẹ chôn vùi bao lũ giặc xâm lăng Mẹ cho ta, mẹ chẳng để lại gì cho mẹ cả
Ôi những vườn sầu riêng, những vườn cam trĩu quả (Ta lại đi chân đất)
Tình yêu đất mẹ nặng trĩu trong lòng nhà thơ. Nhưng Lê Anh Xuân yêu quê hương không phải chỉ để ngắm, để nhìn quê hương mà ông đang cùng quê hương chiến đấu và lớn lên với quê hương. Nếu trước đây ông viết về phong trào cách mạng ở Miền Nam chỉ bằng trí
63
tưởng tượng thì giờ đây ông có thêm sự trải nghiệm của bản thân. Ở tập Hoa dừa có hình ảnh của nhiều địa danh khác nhau trên vùng đất thành đồng. Ngoài Bến Tre dạt dào sức sống, anh dũng quật cường là "Chiều Ấp Bắc trong veo / Đồng Ấp Bắc một màu xanh ngắt" mặc cho"Quân giặc đêm ngày vẫn giội bom trút đạn" (Qua Ấp Bắc), là An Đức "Trăng đang nhô lên sáng rực" soi bóng những người du kích đang luồn sâu vào lòng địch (Nhìn về An Đức), là Đồng Tháp Mười có "Bông sen trắng, bông sen hằng thơm ngát", có "cánh cò bay trong sắc trời lá mạ / Cá quẫy đầm sen thiết tha / Xôn xao bông súng nở xòa" (Anh đứng giữa Tháp Mười). Đó là dòng sông Cổ Chiên trong đêm chói lòa ánh lửa bởi em nhỏ giao liên ôm thủ pháo lao vào tàu giặc (Ánh lửa bên sông), là Sài Gòn "những phố hè, những hàng me xanh ngát" với "Cái vầng sáng bồn chồn thương nhớ đó / Cứ đêm đêm nức nở gọi ta về "(Mùa xuân Sài Gòn, mùa xuân chiến thắng). Người đọc cảm thấy trong thơ Lê Anh Xuân có khí thế sục sôi của cách mạng Miền Nam trong những năm tháng ác liệt nhất:
Không ở đâu đứng lên đánh Mỹ Như Miền Nam mười bốn triệu người Không ở đâu đứng bên chiến lũy Như Miền Nam hai chục năm rồi
(Không đâu như ở Miền Nam)
Bằng cái nhìn của người trong cuộc, cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân ngày càng có thêm tầm khái quát và chiều sâu suy tưởng. Nếu Chế Lan Viên cảm nhận: "Diệt Mỹ là cao cả của tình yêu" thì Lê Anh Xuân cũng bắt đầu nhận thấy: "Đánh Mỹ đã trở thành cuộc sống"; và ông đã nhìn cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam trên một tầm vóc mới:
Miền Nam ơi ! Người là dũng sĩ Đang đứng canh cho cả trăm miền Khuôn mặt người sáng ngời chân lý....
(Không đâu như ở Miền Nam)
Thơ Lê Anh Xuân là tiếng lòng của người thanh niên giàu nhiệt huyết cách mạng, sẵn sàng dấn thân cống hiến cho đất nước quê hương. Từ khi có mặt nơi chiến trường ác liệt, thơ Lê Anh Xuân trở nên khỏe khoắn, sinh động hẳn lên, đem đến cho người đọc những cảm xúc
mạnh mẽ hẳn lên. Và do vậy, cảm hứng sáng tạo trong thơ ông cũng có một bước phát triển vượt bậc cả bề rộng lẫn chiều sâu.
• Quê hương đất nước từ chiều kích không gian và thời gian.
Nhà thơ cũng như mọi người, ai cũng có một quê cha đất tổ, một nơi chôn rau cắt rốn.
Nơi ấy đã góp phần tạo nên chất giọng và lớn hơn là phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, quê hương, nói như Đỗ Trung Quân: "mỗi người chỉ một như là chỉ một mẹ thôi". Nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì quê hương là không gian đã chở che, vỗ về để mỗi người lớn lên, lập thân, lập nghiệp. Hơn ai hết, nhà thơ là người giàu cảm xúc và luôn hướng tới quê hương theo chiều rộng không gian chứ không chỉ bó hẹp nơi sinh ra mình. Và như vậy, quê hương cũng là đất nước, là xứ sở mà tổ tiên đã ngàn đời dày công gây dựng và bảo vệ. Chế Lan Viên đã rất trữ tình và thuyết phục khi triết lý: "Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương".
Lê Anh Xuân cũng vậy, ông có một vùng cảm hứng, có thể nói là rất mặn mà và có duyên. Đó là quê hương Nam Bộ và nhất là quê nội Bến Tre. Nhưng không ai phủ nhận cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Lê Anh Xuân chỉ có ngần ấy. Nhà nghiên cứu Huỳnh Lý khẳng định: "Lê Anh Xuân yêu quê hương nhưng không địa phương chủ nghĩa." và giải thích thêm: "Một chàng trai trẻ yêu đời đã đi suốt Nam Bắc, tất không có lòng thiên vị không thấy còn chỗ nào đẹp nữa ngoài quê hương." [43,tr.61].
Thật vậy, đối với Lê Anh Xuân, quê hương đâu chỉ duy nhất là Bến Tre, nơi có ba con sông rồng bạc xòa chân ôm giữ những dải cù lao, quanh năm dừa xanh trĩu quả. Đối với ông, quê hương còn là Đà Lạt có bờ xanh lặng, có thác trắng gầm reo, có đồi thông dìu dịu mùi hương, có kỷ niệm êm đềm với cô gái vùng cao ngày nào còn "nhỏ xíu" nay đã "đứng lên như một anh hùng". Nhà thơ say sưa sống với hai chiều thời gian, hai chiều tâm trạng, nhưng trước hết là muốn được cùng em cầm súng gìn giữ đất nước quê hương:
Muốn được theo em sớm chiều mưa nắng Muốn được cùng em cầm súng giữ làng Tuổi thơ xưa anh thích hồ xanh lặng Nay lòng anh như thác trắng gầm vang.
(Em đẹp nhất)
Quê hương còn là rừng U Minh tràm đước bạt ngàn, nơi đã chở che cho những người yêu nước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; là vùng Năm Căn đất mặn mồ