CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CẢM HỨNG TRỮ TÌNH -
3.1. Cách s ử dụng ngôn từ và thể thơ
3.1.2. Cách s ử dụng thể thơ
Trong sáng tạo thơ ca, đi tìm thể thơ phù hợp với tâm trạng, sở trường và cảm hứng là điều không thể thiếu đối với mọi thi nhân. Nói như nhà nghiên cứu Lê Tiến Dũng: "Khi nhà thơ lựa chọn một thể nào đó để sáng tác cũng có nghĩa là lựa chọn một khả năng diễn đạt phù hợp với điệu thức tâm hồn mình, phù hợp với cảm xúc cần bộc lộ" [8, tr.122]. Còn nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức thì cho rằng: "Nhờ có hình thức thơ thích hợp nên trạng thái cảm xúc và lối cấu tứ của nhà thơ mới phong phú và đa dạng hơn" [56, tr.83]. Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề này còn có sự chi phối của yếu tố thời đại nữa. Chẳng hạn, thơ Việt Nam trong thời đại chống Mỹ tất phải có sự phát triển của nhiều thể khác nhau. Vì chỉ có như vậy thì thơ mới phản ánh được nhiều mặt và kịp thời những sự kiện, biến cố có tầm vĩ mô trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt. Nói cách khác, cảm hứng trữ tình - sử thi luôn rộng mở đón nhận tất cả các thể thơ, miễn là thể hiện được âm hưởng hoành tráng của thời đại. Thực tiễn cho thấy, trong thế hệ thơ chống Mỹ, không có nhà thơ nào chỉ sử dụng một thể duy nhất; và cũng hiếm người toả sáng trên tất cả các thể loại.
Lê Anh Xuân cũng vậy, để chuyển hóa cảm hứng trữ tình - sử thi thành những thông điệp nghệ thuật, ông sử dụng (có tìm tòi, sáng tạo) nhiều thể thơ khác nhau. Tập hợp lại, chúng tôi qui thơ Lê Anh Xuân vào bảy thể: thể năm tiếng, sáu tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, lục bát, song thất lục bát, và thơ tự do - hợp thể (các thể thơ luật Đường hoàn toàn vắng bóng). Về phương diện thể thơ, chúng tôi nhận thấy Lê Anh Xuân đã sử dụng hiệu quả qua những mặt chủ yếu sau đây:
• Nhịp điệu như một phương tiện để bộc lộ cảm hứng.
Người ta có thể hoài nghi định nghĩa thơ nhưng không ai nghi ngờ "thơ đi bằng nhịp điệu". Sách Từ điền thuật ngữ văn học viết: "Nhịp điệu là sự lặp lại cách quãng đều đặn và có thay đổi các hiện tượng ngôn ngữ, hình ảnh, môtip nhằm thể hiện sự cảm nhận thẩm mỹ về thế giới... mỗi thể thơ có một nhịp điệu riêng" [22, tr.205]. Nhịp điệu là linh hồn tạo ra nhạc điệu thơ. Nhịp thơ có được từ sự phân cắt dòng thơ, bằng sự ngưng giọng. Sự phối hợp nhịp thơ trên từng dòng thơ sẽ tạo thành nhịp điệu. Khi nhà thơ lựa chọn một thể thơ nào đó tức là sẽ chọn luôn cả nhịp điệu của nó. Nhưng nhịp điệu không phải nhất thành bất biến trong mọi thể thơ. Cũng có những thể thơ bao gồm nhiều nhịp ngắt khác nhau (ví dụ thể lục bát). Bởi thế việc chọn và tạo nhịp cho thơ bao giờ cũng gắn với cảm hứng và điệu thức tâm hồn của nhà thơ.
Lê Anh Xuân sáng tác ở nhiều thể thơ, điệu tâm hồn của ông một phần cũng được bộc lộ qua nhịp thơ mà ông sáng tạo. Nhìn chung, nhịp trong thơ Lê Anh Xuân là nhịp của cuộc sống cộng đồng, của dân tộc hòa với nhịp khỏe khoắn, lạc quan trong tâm hồn nhà thơ; bên cạnh nhịp của những lời trữ tình thiết tha, nồng thắm. Như vậy, nhịp thơ là một phương tiện để nhà thơ bộc lộ cảm hứng và những rung động thẩm mỹ: "Nhịp trong thơ là nhịp trên cơ sở lao động, dựa vào hơi thơ gắn liền với xúc cảm, dựa vào chất liệu ngôn ngữ. Nhịp thơ là nhịp điệu có tính mỹ học do con người sáng tạo ra, để biểu hiện tư tưởng, tình cảm con người" [30, tr.
182].
Lê Anh Xuân có bốn bài sáng tác theo thể thơ năm tiếng nhưng không bị gò bó như thơ ngũ ngôn Đường luật. Đây là thể thơ phổ biến trong ca dao dân ca (các loại vè, đồng dao, hát dặm Nghệ Tĩnh) và đã được một số nhà thơ trong kháng chiến chống Pháp sử dụng thành công (Minh Huệ, Trần Hữu Thung). Lê Anh Xuân sử dụng thể thơ này vừa để bộc lộ tâm trạng (Đọc thơ Đồ Chiểu, Đêm mưa, Vườn xưa) vừa để kể chuyện người anh hùng đánh giặc (Lão du kích). Nhịp điệu thường thay đổi liên tục, có dòng ngắt nhịp chẵn - lẻ (2/3) nhưng cũng có dòng ngược lại (3/2 hoặc 1/2/2). Ngắt nhịp như vậy tạo cho âm hưởng thơ thêm đa điệu, bộc lộ được nhiều cung bậc tình cảm:
Tôi về thăm / vườn xưa (3/2) Ngổn ngang / dừa ngã gục (2/3) Ngày / không nghe / tiếng gà (1/2/2) Đêm / không còn / ánh lửa (1/2/2)
(Vườn xưa)
Nếu tính số lượng câu thì thể thơ lục bát được Lê Anh Xuân sử dụng nhiều nhất: mười một bài thơ, một trường ca, tổng cộng gồm 1647 câu (một số lượng không nhỏ). Có nhà nghiên cứu cho rằng thơ lục bát của Lê Anh Xuân còn đơn điệu, thiếu luyến láy, chưa biến hóa. Nói như vậy có lẽ chỉ đúng khi ông chưa khai thác hết các loại của thể thơ này (như lục bát biến thể, lục bát tách dòng). Tuy nhiên, nhịp điệu trong thơ lục bát của Lê Anh Xuân cũng khá đa dạng chứ không sáo mòn, tẻ nhạt. Đó là chưa nói đến sự sáng tạo của ông khi đan xen thể lục bát với thể thất ngôn; tạo cho nhịp thơ có một bước đổi thay phù hợp với cảm xúc của nhà thơ trước hiện thực của cuộc chiến khốc liệt đang diễn ra ở Miền Nam. Phổ biến trong thơ lục bát là nhịp chẵn 2/2, nhịp của tâm trạng khoan thai, bình thản:
99
Rừng xa / vọng tiếng / chim gù,
Ngân nga / tiếng suối,/ vi vu / gió ngàn Mùa xuân / đậm lá / ngụy trang
Đường ra / tiền tuyến / nở vàng / hoa mai (Rừng xuân)
Ở trường hợp khác, để bộc lộ tình cảm nhớ thương da diết đối với quê hương, tác giả chủ động xen vào nhịp 3/3/2 ở câu bát, khiến cho âm hưởng thơ như có sự gấp khúc, trăn trở:
Ta thèm/ chút nắng/ quê hương
Màu xanh mịn/ lá dừa vương/ trên đầu (3/3/2) (Dừa ơi)
Hoặc có khi nhà thơ lại ngắt nhịp 1/2/3 rất uyển chuyển:
Không./Sài Gòn /vẫn hiên ngang (1/2/3) Sáng trưng / khuôn mặt / sao vàng / long lanh
( Trường ca Nguyễn Vãn Trỗi)
Liên quan đến thể thơ lục bát còn có thể song thất lục bát. Sự xuất hiện thể thơ này trong sáng tác của Lê Anh Xuân là một hiện tượng đáng quan tâm. Bởi nói như nhà nghiên cứu Phan Diễm Phương: "Có một hiện tượng rất đáng quan tâm, đó là sự thưa vắng dần của thể thơ song thất lục bát. Trong thơ Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám có thể đếm tên bài trên đầu ngón tay" [12, tr.767]. Lê Anh Xuân viết Bông trang đỏ - một thiên sử thi về người mẹ anh hùng bằng thể song thất lục bát. Độ dài bài thơ lên đến 150 câu, tuy cấu trúc âm luật không có gì thay đổi nhưng nội dung biểu đạt thì hoàn toàn mới so với những thi phẩm cùng thể loại trong văn học truyền thống.
Cách ngắt nhịp ở đây vẫn tuân theo qui định của thể thơ nhưng âm hưởng chủ đạo của cả bài lại là khúc tráng ca đày tự hào. Mở đầu và kết thúc bài thơ đều ngân nga điệp khúc về người mẹ rất thực mà như huyền thoại:
Dừa Bến Tre bốn mùa xanh mát Sông Hàm Luông ca hát sớm chiều Hát rằng: hỡi mẹ kính yêu
Cuộc đời mẹ đẹp như màu bông trang.
Ở các bài thơ không tuân theo qui định của niêm luật (thơ tự do), nhịp điệu còn biến hóa hơn nhiều. Ta bắt gặp nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như sóng cồn bão nổi trong những bài thơ viết về khí thế cách mạng, về cuộc hành quân của đoàn quân giải phóng. Âm hưởng của lời thơ là âm hưởng của ngày hội toàn dân, của Mùa xuân Sài Gòn mùa xuân chiến thắng:
Ta say cái ồn ào của ngày hội toàn dân
Vui các rộn ràng của tiếng súng tiếng bàn chân Tất cả xuống đường cuồn cuộn
Ôi ta khóc, ta mừng, ta sung sướng Ta thét vang cho hả dạ bao nhiêu năm
Những câu thơ viết từ xuân Mậu Thân 1968 mà cứ ngỡ như được ra đời đúng vào ngày Miền Nam đại thắng năm 1975. Ta bắt gặp ở đây cái nhịp điệu của Huế tháng Tám mà Tố Hữu từng thể hiện khi Cách mạng mới thành công.
Như vậy, dù sáng tác bằng nhiều thể thơ khác nhau nhưng tựu trung lại nhịp trong thơ Lê Anh Xuân vẫn thuộc về nhịp điệu của thơ trữ tình - sử thi. Ông sử dụng nó như một phương tiện hữu hiệu để bộc lộ cảm hứng và ý đồ nghệ thuật của mình.
• Phối xen giữa các thể thơ và thủ pháp tạo điểm dừng bài thơ.
Phối xen giữa các thể thơ trong một bài thơ (thường gọi là thơ hợp thể) trở nên phổ biến trong thơ kháng chiến chống Mỹ. Sự ra đời của thơ hợp thể, một mặt tuân theo qui luật hình thức phục vụ không hạn chế cho biểu hiện của nội dung, mặt khác, nó hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh cụ thể ở nước ta lúc bấy giờ: "Ở trình độ phát triển của thơ ca ta hiện nay, dùng một lèo thể thơ cũ hoặc chỉ dùng thơ tự do cả cũng không hợp. Bảo thủ hoặc tiên phong chủ nghĩa đều không đúng. Cho nên, tất nhiên phải có một thời kỳ thơ cũ và thơ mới xen kẽ nhau [39, tr.124]. Lê Anh Xuân tỏ ra nhuần nhuyễn trong việc phối xen các thể thơ để tạo nên những thi phẩm sinh động, có không khí. Khảo sát thơ ông, chúng tôi thấy trong tổng số 60 bài của hai tập thơ, có đến 18 bài được sáng tác theo hình thức phối xen (bên cạnh những bài sáng tác theo thể tự do). Ở đây chúng tôi chỉ lược bàn một số bài tiêu biểu.
Cấy đêm là một bài thơ hay, từng được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông. Khi phân tích nghệ thuật, nhiều giáo viên chỉ chú ý đến thể thơ lục bát mà quên rằng đây là bài thơ
101
được phối xen với thể thất ngôn. Bài thơ sáng tác theo mạch cảm xúc vừa hiện thực trong công việc vừa lãng mạn trong tâm hồn; có hình ảnh của các mẹ, các chị; có giọng nói, tiếng cười "nho nhỏ"; có lời tâm tình của tác giả. Nhưng giọng thơ thì có sự thay đổi rõ rệt. Đó là sự thay đổi từ thể lục bát lúc khoan, lúc nhặt sang thể thất ngôn rắn chắc, mạnh mẽ rồi lại quay về với thể lục bát mang phong vị ca dao:
Mẹ ơi / Tóc bạc tuổi già
Cấy đêm mẹ vẫn xông pha chẳng sờn...
Chúng tưởng đâu giội nhiều bom đạn (thất ngôn) Ta bỏ làng, bỏ xóm ta đi (thất ngôn)
Thức đêm ta cấy quản gì
Sáng ra lúa đã xanh rì đồng ta...
Bài thơ Anh đứng giữa Tháp Mười được Lê Anh Xuân sáng tác theo thể tự do nhưng ở đoạn cuối, tác giả dành một một khổ năm dòng, trong đó đan xen hai dòng bằng thể thơ sáu tiếng rất ấn tượng:
Nơi đây lúc dịu êm Đất hiền như tuổi thơ
Cánh cò bay trong sắc trời lá mạ Cá quẫy đầm sen thiết tha (6 tiếng) Xôn xao bông sáng nở xòa (6 tiếng)
Có thể nói, sự xuất hiện hai câu thơ thể sáu tiếng đã nâng đỡ cho tứ thơ cả đoạn bay bổng hẳn lên. Âm hưởng hùng ca của những đoạn thơ trước đó, đến đây lại được đan quyện với âm hưởng tình ca, hợp thành một bản giao hưởng trữ tình - sử thi rất đặc trưng cho hồn thơ tác giả.
Dòng sông tuổi nhỏ là bài thơ có sự phối xen của nhiều thể khác nhau (ít nhất hai tiếng, nhiều nhất sáu tiếng) nhưng nền tảng chính của nó vẫn là thể bốn tiếng. Bài thơ nối ký ức với thực tại, cả hai chiều thời gian đều được hiện về trên một trục không gian không đổi (dòng sông). Với cách phối xen nhiều thể thơ như vậy, tác giả hoàn toàn có thể tự bộc lộ các cung bậc tình cảm khác nhau của mình; trong đó ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là kỷ niệm đẹp về một bến sông, nơi có:
Dấu chân em đẹp quá ! Như hoa
Nở trên bến phù sa
* Cùng với phối xen các thể thơ, Lê Anh Xuân còn sử dụng thủ pháp tạo điểm dừng bài thơ theo cách riêng của mình. Trong một số thi phẩm, nhà thơ có kiểu kết thúc bằng một hoặc hai câu ở dạng "mở" gây được độ dư về ngữ âm và ngữ nghĩa. Bài thơ dừng lại nhưng âm hưởng vẫn còn ngân nga, lan tỏa; hình tượng thơ cứ chập chờn trong tâm tríngười đọc. Chẳng hạn ở bài Con đường cũ, nhà thơ kết thúc bằng hai câu, tách thành một khổ riêng:
Anh trở về đây con đường cũ năm nào Một chuyến xe qua lòng đất xôn xao...
Hai câu thơ đầy âm tiết mở và vang, cái "xôn xao" của lòng đất đan quyện với cái xôn xao của lòng người, mà lòng người là điều mà nhà thơ hướng tới. Những kiểu kết thúc như vậy, dư vị thơ vẫn còn.
Điều dễ nhận thấy trong thơ Lê Anh Xuân (và thơ trữ tình - sử thi nói chung) là kết thúc có hậu. Bài thơ có thể đan xen những tâm trạng khác nhau nhưng điểm dừng cuối cùng thì bao giờ cũng rộn rã, lạc quan, hơi thơ bay bổng, tràn ngập:
Nghẹn ngào bao chuyện buồn vui Nhìn nhau đã thấy ngày mai rực hồng Chân trời trắng sóng Cửu Long.
(Về Bến Tre)
Trong một số bài thơ khác, Lê Anh Xuân tạo điểm dừng bằng một câu thơ duy nhất. Và để nhấn mạnh, ngợi ca nhân vật trữ tình, câu kết thúc thường khắc đậm một không gian sử thi;
hình tượng thơ trở nên lộng lẫy, sôi động, đầy ám ảnh:
Thôi em nằm lại, Cổ Chiên
Quê hương, sóng vỗ ru êm bốn mùa Bình yên thuyền đã đến bờ
Xa còn thấy bóng em thơ giữa dòng Sáng ngời ánh lửa trên sông.
103
(Ánh lửa trên sông)
Điểm dừng của bài thơ là một dòng lục: "Sáng ngời ánh lửa trên sông". Đây là kiểu kết thúc để ngỏ, thường xuất hiện trong thể thơ lục bát. Ca dao cũng có trường hợp tương tự "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh / Non xanh nước biếc như tranh hoa đồ/ Ai vô xứ Nghệ thì vô". Nhưng khác với ca dao, dòng lục kết thúc trong thơ Lê Anh Xuân là một câu khẳng định như một sự tiếp diễn. Và như thế, hình tượng thơ không hề bị tan biến mà ngược lại trở thành bất hủ, tái hiện trong lịch sử và trong tâm thức con người. Tạo điểm dừng như vậy, độ ngân của bài thơ vang xa hơn, vẻ đẹp của nhân vật trữ tình cũng hoành tráng hơn. Chúng tôi coi đó như một thủ pháp nghệ thuật mang đậm dấu ấn Lê Anh Xuân.
• Thành công bước đầu ở thể trường ca.
Sử dụng các thể thơ như những phương tiện để bộc lộ cảm hứng, Lê Anh Xuân còn thể nghiệm ở thể trường ca và bước đầu đạt được thành công đáng ghi nhận: "Sự ra đời của Trường ca Nguyễn Văn Trỗi như một bước thử sức của nhà thơ trên chặng đường sáng tạo của mình" [90 , tr.464]. Bước thử sức đầu tiên là việc lựa chọn thể thơ. Theo nhà phê bình Hoài Thanh thì: "Anh viết đi viết lại truyện này. Trong một bản thảo gửi ra từ năm 1966, ta thấy câu chuyện được kể bằng những đoạn thơ bảy chữ. Có đoạn khá thành công... Nhưng ít lâu sau lại thấy gửi ra một bản khác dài ngót một ngàn rưỡi câu bằng thơ sáu tám" [81, tr.268]. Chọn thể lục bát, có lẽ Lê Anh Xuân thấy đây là thể thơ có lợi thế trong việc xây dựng cuộc đời nhân vật ở tầm vĩ mô. Chúng ta biết rằng trường ca là: "Tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình " [22, tr.319]. Trường ca Nguyễn Văn Trỗi thuộc trường ca tự sự (có cốt truyện, nhân vật, diễn biến câu chuyện...). Tuy nhiên, phần trữ tình trong trường ca này vẫn chiếm một dung lượng đáng kể. Và thành công nổi bật của Lê Anh Xuân chính ở những câu trữ tình đó.
Chúng tôi không cho rằng Trường ca Nguyễn Văn Trỗi là phỏng tác từ Sống như anh của Trần Đình Vân. Ở đây không chỉ là sự khác nhau của thể loại (một bên là trường ca - thơ với một bên là văn xuôi - ký) mà sự rung động thẩm mỹ của hai tác giả cũng khác nhau (dù cốt truyện giống nhau). Lê Anh Xuân nghiêng về trữ tình, ông xúc động mạnh trước tình yêu, tình người, tình đồng chí nhưng vẫn tuân theo cốt truyện. Trong Trường ca Nguyễn Văn Trỗi, các nhân vật, nhất là nhân vật anh Trỗi - chị Quyên, ngoài sự dẫn dắt các tình tiết theo lôgíc câu chuyện, giữ được tính khách quan (nhân vật là nguyên mẫu có thật) đều có sự chi phối bởi tình cảm chủ quan và trí tưởng tượng của tác giả. Lê Anh Xuân đã bỏ qua nhiều chi tiết "văn xuôi"