Nghiên cứu trong n−ớc về bệnh cúm gia cầm

Một phần của tài liệu nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý chủ yếu của bện cúm gia cầm (Trang 37 - 40)

Vì là lần đầu tiên xảy ra ở Việt Nam, cộng với những thiếu thốn về sơ sở vật chất, trang thiết bị nên các nghiên cứu về cúm gia cầm gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên với mục tiêu nghiên cứu thực tế dịch cúm gia cầm ở Việt Nam cũng nh− nghiên cứu

áp dụng các phương pháp chống cúm hiện đại trên thế giới để đề ra các biện pháp khống chế cúm khoa học, phù hợp với hoàn cảnh dịch bệnh ở n−ớc ta, các nghiên cứu về cúm gia cầm ở Việt Nam bước đầu đã thu được kết quả:

*Kết quả nghiên cứu phân lập virus, tìm hiểu nguồn gốc dịch cúm:

Vi rus cúm gia cầm đầu tiên đ−ợc phân lập ở Việt Nam vào ngày 7/8/2003 từ các mẫu bệnh phẩm ngan mắc bệnh . Tiếp theo đó nhờ sự hợp tác giúp đỡ của trung tâm khống chể dịch bệnh CDC (Mỹ), vào tháng 9/2003 đã xác định đ−ợc kháng nguyên H5 của virus cúm và đến tháng 1/2004 đã xác định đ−ợc kháng nguyên N của virus cúm phân lập tại các ổ dịch là N1.

Khi phân tích các mẫu virus cúm thông qua giải mã gen của virus, Nguyễn Tiến Dũng, Malik Peiris, Robert Webster, Đào Thanh Vân (2004)[9], đã cho thấy dịch cúm gia cầm tại Việt Nam là do một loại virus duy nhất (cả về không gian và thời gian) gây ra. Có nghĩa là dịch có nguồn gốc từ một ổ dịch ban đầu sau đó lây lan ra khắp cả n−ớc. Virus cúm gia cầm H5N1 Việt nam có nguồn gốc từ các virus cúm lưu hành ở Trung Quốc.

* Kết quả nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ học

Trong quá trình nghiên cứu đã xác định đ−ợc các loài gia cầm mắc bệnh là gà, gà tây, chim cút, bồ câu, đà điểu, vịt, ngan và ngỗng. Thực tế về loài mắc ở Việt Nam có điểm khác so với loài mắc của cúm gia cầm tr−ớc đây chỉ mắc ở gà, gà tây, chim cút (các loài chim cạn). Trong khi đó dịch cúm gia cầm ở Việt Nam phát rất mạnh không chỉ loài chim cạn mà cả ở thuỷ cầm, những loài tr−ớc đây

đ−ợc coi là vật mang virus mà không mắc bệnh. Tỷ lệ mắc bệnh gần 100%, tỷ lệ tử vong trung bình 60% (Lê Văn Năm, 2004)[16 ],(Bùi Quang Anh, Văn Đăng Kú, 2004)[2].

Các nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng, Đỗ Quí Ph−ơng (2005)[10], khi khảo sát dịch tễ của 3 đợt dịch đã chỉ ra rằng nguồn gốc các ổ dịch trong vụ dịch

đầu năm 2004 là do sự di chuyển của đàn gia cầm giống, còn đợt dịch thứ 2 là từ ngan sau đó đến vịt gây ra và ở đợt dịch thứ 3 tại Tây Nam bộ là do dịch địa ph−ơng do bán gia cầm bệnh và vịt mang trùng.

Một nghiên cứu khác tại đồng bằng Bắc Bộ cho thấy tỷ lệ gà có huyết thanh (+) ở hộ chăn nuôi gà là 8,4%, trong khi đó ở hộ chăn nuôi lẫn gà, vịt là

69,5%. Điều đó đồng nghĩa với nguy cơ mắc cúm gia cầm của gà nuôi lẫn thuỷ cầm cao gấp 8 lần so với nuôi riêng biệt.

Cũng nằm trong các nghiên cứu về sự lưu hành của virus cúm Nguyễn Tiến Dũng và cộng sự (2005)[10], khi khảo sát 2.000 mẫu huyết thanh và mẫu ngoáy dịch ổ nhớp ở một số tỉnh phía bắc và Tây nam Bộ cho kết quả trung bình cứ 1.000 vịt có 1,5 vịt mang virus cúm H5. Ngoài virus cúm H5 vịt còn nhiễm H3,H4, H6, H9 và H11. Khi nghiên cứu sự nhiễm H5N1 trên vịt các kết quả

nghiên cứu của các tác giả trên còn cho thấy:

- Virus H5N1 sau khi nhân lên ở vịt sẽ dễ dàng biến đổi kháng nguyên HA.

- Hai loại virus được thải ra từ vịt bệnh, một loại cường độc và một loại không cường độc với vịt đều có khả năng gây bệnh cho gà. Vì thế vịt được coi là nguồn dự trữ virus H5N1 để gây bệnh về lâu dài do có thể vẫn nhiễm virus mà không phát bệnh.

- Thời gian tồn tại ngoài môi tr−ờng, thời gian thải virus cũng nh− số l−ợng virus đ−ợc thải ra từ vịt nhiễm H5N1 đều tăng hơn loại virus H5N1 Hồng Công năm 1997.

* Kết quả khảo sát virus cúm trong đàn chim di c− và sự nhiễm virus cúm gia cầm trên lợn.

Một trong những nghiên cứu khác về virus cúm gia cầm là khảo sát lưu hành virus trong đàn chim di c−. Thông qua phân tích 320 mẫu phân chim tại một số địa ph−ơng, bằng ph−ơng pháp RT-PCR và phân lập virus kết hợp với điều tra tình hình dịch bệnh của đàn chim cho kết quả ch−a phát hiện thấy virus cúm.

Kết quả khảo sát 3.500 mẫu huyết thanh để tìm kháng thể H5N1 khi khảo sát sự nhiễm virus cúm trên lợn đã cho thấy lợn có khả năng nhiễm H5N1 với tỷ lệ (+) rất thấp: 8/3500, khi nhiễm không phát bệnh nh− ng−ời và nh− vậy không có sự lây lan từ lợn và từ lợn sang ng−ời tại thời điểm nghiên cứu.

Một phần của tài liệu nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý chủ yếu của bện cúm gia cầm (Trang 37 - 40)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(113 trang)