Bức tranh văn hóa tộc người qua địa danh tỉnh Vĩnh Long

Một phần của tài liệu Địa danh tỉnh vĩnh long qua góc nhìn văn hóa dân gian (Trang 58 - 74)

CHƯƠNG 2. CHỦ THỂ VÀ QUÁ TRÌNH GIAO LƯU VĂN HÓA CHI PHỐI NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH ĐỊA DANH TỈNH VĨNH LONG

2.2. Bức tranh văn hóa tộc người qua địa danh tỉnh Vĩnh Long

Điểm qua lịch sử hình thành của địa phương, chúng ta có thể thấy tỉnh Vĩnh Long nói riêng, vùng TNB nói chung là một vùng đất mới, chịu sự tác động không nhỏ của các tộc người trong quá trình khai khẩn. Dựa trên tình hình đó, chúng tôi sẽ đi sâu vào những chi tiết cụ thể của quá trình xây dựng vùng đất mới dưới sự góp sức của các tộc người bản địa. Họ chính là những nhân tố quy định các phương thức đặt tên và nội hàm văn hóa của địa danh.

2.2.1.1. Trước khi người Việt từ miền Trung di cư vào Đàng Trong theo chủ trương của chúa Nguyễn ở thế kỷ XVIII (đợt đầu tiên vào năm 1732, sau đó nhiều đợt di cư lan rộng ra các tỉnh thành khác ở NB, nhất là vào năm 1758 cho đến cuối thế kỷ XVIII), về cơ bản, tỉnh Vĩnh Long lúc bấy giờ không hẳn là một nơi hoàn toàn hoang hóa. Nhiều học giả nghiên cứu cho rằng, giai đoạn trước khi chúa Nguyễn lập Long Hồ dinh, vùng đất Vĩnh Long đã có người Việt và người Khmer chung sống rải rác vào các thế kỷ trước (người Kinh miền Trung đã tổ chức di cư lẻ tẻ vào NB, trong đó có tỉnh Vĩnh Long, đợt di cư ồ ạt nhất là vào thời điểm cấm đạo của chúa Nguyễn Phúc Khoát). Điều này được thấy rõ qua việc lý giải nguồn gốc một số địa danh như:

Long Hồ (Lon Hor) vốn được các nhà nghiên cứu xem là địa danh gốc Khmer nhưng một số người nhận định là địa danh gốc Việt. Cụ Vương Hồng Sển ngờ rằng: “có lẽ

52

đây là Miên gọi theo ta” nên dịch ra Lon Hor. Huỳnh Minh cũng giải thích địa danh này gắn với giai thoại về Nguyễn Ánh “con sông Long Hồ trước kia vốn mang tên cũ từ thuở xa xưa là con sông Tầm Vồ… và khi thành Vĩnh Long đã nghiễm nhiên được coi như Hoàng cung, đêm đêm người ta lại nghe các thôn nữ chèo ghe cất giọng hát:

Tầm Vồ rày đã đóng đô; Xin quan đổi lại Long Hồ cho xinh… dần dần hai câu hát đến tai Nguyễn Ánh… nên cũng theo đó mà xin đổi tên sông Tầm Vồ ra Long Hồ”

[116; tr.226]. Một số địa danh khác cũng có hai cách giải thích theo nguồn gốc Khmer và nguồn gốc Việt như sông Cổ Chiên. Tiếng Khmer Cổ chính là Koh - nghĩa chỉ cồn, cù lao nên địa danh trên có vẻ do người Khmer đặt cho. Tuy nhiên, dựa theo câu chuyện dân gian được truyền tụng qua nhiều đời, thì Cổ Chiên là địa danh gốc Việt, nhân dân Vĩnh Long cho rằng, trước đây, vào giữa đêm khuya tịch mịch, dân trong làng thường nghe tiếng chiêng trống khua vang từ dưới con sông này. Theo họ, cổ chiên là từ ghép chỉ cái trống (cổ) và cái chiên (chiêng). Chiêng trong trường hợp này bị viết thiếu chữ g. Địa danh sông Vũng Liêm vừa được xem là địa danh Khmer (Prêk Kompon Oknha Lim). Tuy nhiên, tra cứu trên bản đồ An Nam Đại Quốc họa đồ năm 1838 do Taberd ấn hành Vũng Liêm được ghi là Vũng Lim vốn là địa danh Việt;

địa danh Cái Nhum (Srôk kompong Tra Òn) lại có cách giải nghĩa khác gắn với loài cây Nhum… Như vậy, điểm qua một số địa danh trên cho thấy, trước khi chúa Nguyễn thành lập dinh Long Hồ, nhiều địa danh gốc Khmer và gốc Việt đã xuất hiện xen kẽ nhau ở nhiều vùng đất. Tiêu biểu, các địa danh Khmer như sông Măng Thít (Prêk Tà Tran), Cần Thay (Banlê Ansay – Ansay là tên một giống rùa quý dành tặng vua), sông Sa Rày (H.TO) (Prêk Sơrai – Sơrai có nghĩa là bánh lọt), sông Sa Co (H.TO) (Prêk Sako – Sako có nghĩa là đường ăn), thị trấn Trà Ôn (Srôk pàm slap Tràon), sông Mây Tức (Tonlé Mê Tưk)… tồn tại bên cạnh địa danh gốc Việt (có nguồn gốc từ Nam Trung Bộ và Bắc Bộ) chiếm một số lượng lớn. Tiêu biểu như các địa danh: Hoằng trấn vốn có nhiều nét tương đồng với tập quán đặt địa danh ở tỉnh Thanh Hóa (Hoằng Long, Hoằng Lộc, Hoằng Lý, Hoằng Minh, Hoằng Phú, Hoằng Quỳ…); rạch Kỳ Hà (H.LH) (Kỳ Hà (cảng) vốn là địa danh tỉnh Quảng Ngãi); cầu Phù Ly, đường Phù Ly, rạch Phù Ly, sông Phù Ly (H.BM) (Phù Ly là địa danh được hình thành rất lâu đời, khoảng năm 1470 ở tỉnh Bình Định); Cầu La Ghì, chợ La Ghì, giồng La Ghì, kênh La Ghì, sông La Gì, vùng La Ghì (H.TO), cầu Cà Ná, ngọn Cà Ná, sông Cà Ná (H.TB) (địa danh này khá giống địa danh thị xã La Gi, biển Cà 23 thuộc tỉnh Bình Thuận… Song song đó, một số phương thức đặt tên địa danh dân gian ở tỉnh Vĩnh Long cũng góp phần chứng minh sự ảnh hưởng về tập quán sử

23 “Gần một nghìn năm cộng cư với người Chăm, người Việt đã tiếp thu hàng trăm địa danh ở dọc dải đất miền Trung. Cà Ná là tên núi ở huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cao 339m. Sau đó, Cà Ná trở thành tên xã của huyện Thuận Nam cùng tỉnh. Cà Ná, có nhiều cách lý giải, nhưng cách được tin tưởng nhiều là Canah/Canaq Klou (Canah: tẽ ra; Klou : ngã ba) vì hòn núi nằm ở chỗ có ngã ba tẽ ra” [86; tr.16].

53

dụng ngôn ngữ do di dân ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định... mang vào vùng đất mới như: địa danh có thành tố đứng đầu là cù lao (Ré, Xanh…), eo (Mây), đầm (bàu súng), vùng (Cây Sung, Cây Quýt…), khe (Chuối)… địa danh mang thành tố lớn/bé (người TNB không có tập quán dùng từ lớn/bé mà sử dụng từ lớn/nhỏ hoặc bự/nhỏ): ấp Đồng Bé, cầu Đồng Bé 2, đường Cầu Đồng Bé, ngã ba Đồng Bé, ngã ba Sông Đồng Bé, rạch Đồng Bé, rạch Ngã Đồng Bé, rạch Ngã Ba Đồng Bé, vàm Đồng Bé (H.MT, Vĩnh Long) (tỉnh Quảng Ngãi cũng đặt tên địa danh theo lối này như đảo Lớn, đảo Bé…); bến đò Ba Phố, sông Ba Phố - H.TB (trong dân gian, TNB không dùng từ Phố như các tỉnh phía Bắc); địa danh rạch Cầu (Cây) Đào vốn là minh chứng về cách sử dụng từ của cư dân miền Bắc gọi cây điều ở miền Nam là cây đào lộn hột…

2.2.1.2. So với người Việt và người Khmer, người Hoa đến sinh sống ở tỉnh Vĩnh Long muộn hơn, họ di cư vào vùng đất này bởi sự kiện nước ta bị thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông NK. Họ vốn là hậu duệ của nhóm người Minh Hương theo Trần Thượng Xuyên vào Biên Hòa sinh sống vào thời chúa Nguyễn Phúc Tần như đã đề cập. Bên cạnh đó, căn cứ vào nguồn gốc lập làng, chúng ta giả định rằng, tỉnh Vĩnh Long còn có một nhóm người Minh Hương theo Dương Ngạn Địch ở Tiền Giang đã di chuyển về vùng đất này sinh sống do có cùng địa giới hành chính. Bởi dinh Long Hồ thời chúa Nguyễn vốn bao gồm các châu Định Viễn, đạo Tân Châu, đạo Châu Đốc, đạo Đông Khẩu, đạo Trường Đồn (tương ứng với các tỉnh Vĩnh Long, Tiền Giang, Long An, An Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Trà Vinh). Hơn nữa, đặc trưng về kinh tế của người Minh Hương là kinh doanh thương mại, nên khả năng họ di chuyển về lỵ sở dinh Long Hồ - nơi được xem là vùng đất phố chợ trù mật là có cơ sở. Mặt khác, trong lịch sử, sau khi Dương Ngạn Địch đến Mỹ Tho xây dựng vùng đất này trở thành Mỹ Tho Đại phố “nhà ngói đục chạm, chèo đi lại như mắc cửi, phồn hoa huyên náo là một nơi đại đô hội” [45; tr.197], lập ra chín trường biệt lập là Quy An, Quy Hóa, Kiểng Dương, Thiên Mụ, Quảng Tác, Hoàng Tích, Tam Lạch, Bả Canh, Tân Thạnh, ông đã thu hút khá nhiều thương nhân, nhà sư cùng những trí thức Nho giáo đến đây lập nghiệp… Tuy nhiên, sau chín năm gầy dựng, Mỹ Tho rơi vào cảnh như đóa hoa phù dung sớm nở tối tàn, Dương Ngạn Địch bị phó tướng Hoàng Tiến giết hại và tự xưng là “Phấn Dũng hổ oai tướng quân” thả quân đi cướp bóc. Trước tình cảnh này, một số người Hoa Minh Hương di tản sang các nơi khác, trong đó có tỉnh Vĩnh Long. Bên cạnh đó, sau sự kiện di cư của nhóm người Minh Hương năm 1679, nhà Thanh đã ban hành lệnh cấm nhằm đề phòng việc khởi nghĩa từ bên ngoài của bộ phận di cư. Năm 1685, do phát triển hoạt động ngoại thương, nhà Thanh đã bắt đầu mở cửa cho thuyền bè đi lại buôn bán, tạo điều kiện

54

cho một bộ phận người Minh Hương lại bắt đầu tiến trình di cư đến sinh sống ở Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng.

Song song với bộ phận người Hoa là những người Minh Hương nói trên, tỉnh Vĩnh Long còn có nhóm người Hoa là người Đường (Thanh) di cư ồ ạt vào Việt Nam ở những năm 60, 70 và 80 của thế kỷ XIX nhân thời cơ vua Thanh xâm chiếm Bắc Kỳ vào tháng 6 năm 188324. Khác với thành phần di dân ở các đợt trước, người Hoa vào tỉnh Vĩnh Long chủ yếu là những người bị mất việc, thất nghiệp, những thương gia vỡ nợ… hy vọng tìm được nơi đất lành để sinh sống.

Về tổng thể, người Hoa là một bộ phận tộc người có số lượng khá lớn so với người Khmer và Chăm ở tỉnh Vĩnh Long. Qua các giai đoạn lịch sử, sự ảnh hưởng của người Hoa lên địa danh tỉnh Vĩnh Long được thể hiện ở khía cạnh ngôn ngữ tộc người có mặt trên địa bàn tỉnh. Họ đến từ các địa phương Lôi Châu, Quế Châu, Hải Nam, Quảng Đông, Phúc (Phước) Kiến. Trong đó, người Hoa tỉnh Vĩnh Long có nguồn gốc từ hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến chiếm đa số. Điều này được thể hiện qua các địa danh như kênh Dà Vách, kênh Già Giách (H.TO)… với âm gốc vốn là Dà Dách theo tiếng Quảng Đông [83; tr.231]; Địa danh bến Chành Vũ, rạch Chành (Tp.VLo) - chành gốc tiếng Quảng Đông, có nghĩa là kho quán, khách sạn [83;

tr.153]. Trong giai đoạn thuộc Pháp, chành là từ chỉ vựa tích lũy lúa gạo, chính việc khai thác và bóc lột lúa gạo ở NK lúc bấy giờ của thực dân đã làm xuất hiện các trung tâm mua bán sầm uất. Tỉnh Vĩnh Long đương thời là vựa lúa đứng thứ ba của khu vực (tập trung ở địa bàn phường 5, tp. Vĩnh Long ngày nay, khu vực này đương thời có đến 100 nhà máy xay lúa), hoạt động kinh doanh phần lớn do người Hoa gốc Quảng Đông, Phúc Kiến đảm nhận nên địa phương hình thành khá nhiều chành gắn với tên gọi địa danh như nói trên.

2.2.1.3. Trong bức tranh văn hóa tộc người tỉnh Vĩnh Long, vào thời khẩn hoang, chúng ta chưa thấy sự xuất hiện của tộc người Chăm. Theo nhận định toàn khu vực TNB, người Chăm đến sinh sống trên vùng đất này khá muộn, khoảng đầu thế kỷ XIX. Hầu hết người Chăm ở TNB không phải người Chăm từ Bình Thuận vào mà họ là hậu duệ của người Chăm có nguồn gốc từ người Chăm Trung Bộ sang sinh sống ở Campuchia trên hai, ba thế kỷ nay:

“Người Chăm ở ĐBSCL vốn thuộc nhóm của người Chăm ở Trung Bộ Việt Nam di chuyển sang Campuchia vào khoảng thế kỷ thứ XV - XVI (hiện nay vẫn còn một bộ phận đang sinh sống ở Công pông Chăm

24Chính vì thành phần tộc người này mà kể từ thời Minh Mạng, nhà vua đã ban hành hai chính sách cai trị đối với người Hoa, ông chia người Hoa thành hai nhóm để đánh thuế thân: “Nhóm Minh Hương gồm những người đã định cư, sinh con đẻ cái, có nhiều công giúp triều Nguyễn mở mang xây dựng đất nước. Những người này được đóng thuế nhẹ. Nhóm người Đường (Thanh) đa số là thương nhân và dân nghèo đi làm thuê vẫn giữ quốc tịch Trung Hoa. Những Hoa kiều này phải đóng thuế nặng, bị kiểm soát gắt gao và chỉ được cư trú ở một số nơi nhất định [160; tr.17 - 18].

55

Campuchia). Đến khoảng đầu thế kỷ XVIII, một số người Chăm này từ Campuchia theo sông Hậu và định cư ở tỉnh Châu Đốc trước đây (nay thuộc tỉnh An Giang)”. Từ An Giang, người Chăm đã đến cư trú ở nhiều tỉnh thành khác thuộc khu vực ĐBSCL” [178].

Hơn nữa, trong lịch sử, vào năm 1832, ngay sau khi Lê Văn Duyệt qua đời, vua Minh Mạng bèn tìm cách kết tội ông. Nhiều người trong gia đình của Lê Văn Duyệt bị giết chết và mang án tù tội, trong đó có Lê Văn Khôi – con nuôi của ông. Trong ngục tù, Lê Văn Khôi đã liên lạc với binh lính bên ngoài và dấy binh nổi dậy chống triều đình, sau đó chiếm được cả NK lục tỉnh. Trong số những người theo Lê Văn Khôi chống lại vua Minh Mạng có rất nhiều người Chăm. Vào năm 1835, khởi nghĩa Lê Văn Khôi bị thất bại, họ đã trốn sang Xiêm và Cao Miên nhưng bị tàn sát nên trở về Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn đã cho họ sinh sống ở các tỉnh miền TNB.

Chính vì những lý do khách quan của lịch sử nói trên, người Chăm đến Vĩnh Long khá muộn. Trong quá trình sống cộng cư với các tộc người còn lại, chúng tôi thấy sự hiện diện của địa danh gốc ngôn ngữ Chăm khá khiêm tốn như: kênh Chà Và ( H.TB), sông Chà Và Lớn, sông Chà Và Nhỏ, sông Chà Và (H.BM, H.TB), vùng đất Chà (còn gọi là Lung Lá – H.TO) thể hiện ở khía cạnh khẳng định sự có mặt của tộc người này ở Vĩnh Long. Theo Lê Trung Hoa nhận xét, danh từ này chỉ những người có nước da đen như người Chăm, Indonesia… Chà Và có từ nguyên âm là Java.

Trường hợp thứ hai là địa danh mang thành tố Trà: “Về nguồn gốc – ý nghĩa, nhiều tác giả cho rằng thành tố này có thể bắt nguồn từ thành tố Ya (nghĩa là nước) trong tiếng Chăm” [4; tr.77]. Tuy nhiên, trên thực tế, thành tố “Trà” ở tỉnh Vĩnh Long có khả năng từ nguồn gốc Khmer như (huyện) Trà Ôn (người Khmer tên Ôn cũng khá phổ biến), rạch Trà Luộc, rạch Trà Ngoa (H.TO), chợ Trà Mách – H.BT, chợ Trà Kiết, ngã ba Trà Kiết (Trà Kết) – H.BM… do sự biến âm giữa [t] và [tr] chứ không phải xuất phát từ địa danh gốc Chăm là Trà (theo tiếng Khmer /ta/ là ông cụ, /niák ta/

là ông tà nên việc biến âm từ Trà thành là có cơ sở)… Tuy nhiên, bên cạnh một số địa danh bị biến âm, chúng tôi cũng ngờ rằng có thể do một bộ phận di dân người Việt ở miền Trung với tâm lý hồi cố đã mang tên gọi của quê hương vào đặt cho một số địa danh mang thành tố Trà ở tỉnh Vĩnh Long chứ không phải do người Chăm trực tiếp đặt tên cho chúng như địa danh lộ Trà Sơn, ngã ba Trà Sơn25 (tỉnh Quảng Ngãi cũng có địa danh xã Trà Sơn thuộc huyện Trà Bồng)...

Như vậy, trong lịch sử, vùng đất Vĩnh Long đã thu hút bốn tộc người chính là Việt, Khmer, Hoa, Chăm đến cư trú. Tuy nhiên, do người Chăm chiếm số lượng ít26

25 Trên thực tế, chúng ta có cây Trà Sơn Mật Hồng Sâm. Tuy nhiên, chúng tôi nhận định rằng các địa danh Trà Sơn ở tỉnh Vĩnh Long không phải là địa danh có nguồn gốc thực vật là bởi vì loài cây Trà Sơn Mật Hồng Sâm chỉ sống phổ biến ở các tỉnh vùng núi phía Bắc của nước ta.

26 Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, người Chăm tỉnh Vĩnh Long có 91 người.

56

và xuất hiện muộn nên sự ảnh hưởng của văn hóa tộc người này lên địa danh tỉnh Vĩnh Long không nhiều so với các tộc người Việt – Khmer - Hoa.

2.2.2. Sự phân bố tộc người là nguồn gốc hình thành địa danh tỉnh Vĩnh Long

2.2.2.1. Vào thế kỷ XVI trở đi, di dân miền Trung rời bỏ xứ Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình… vào sinh sống tại tỉnh Vĩnh Long. Theo nhận định của Huỳnh Lứa, những di dân từ miền Trung vào các tỉnh thành TNB nói chung trong thời kỳ này thường đến ở “những giồng đất cao” “ven sông Tiền, sông Hậu như các khu đất cao ở Gò Công, Mỹ Tho, Tân An, Ba Tri, Sóc Sãi, Mỏ Cày, Trà Vinh, Sóc Trăng, Long Hồ, Kiên Giang, Cần Thơ, Long Xuyên” và “bất cứ ở vùng nào, các giồng đất cao ven sông, nơi có nước ngọt dùng cho sinh hoạt và cho việc trồng trọt, chắc chắn đã là nơi định cư đầu tiên của người dân di cư thời kỳ này” [113; tr.45 - 46]. Như vậy, các địa danh chỉ địa hình mang thành tố giồng, gò, sông, bãi, cù lao…

được xác định là nơi ở đầu tiên của cư dân Việt di dân vào vùng đất Long Hồ dinh vì nhu cầu sinh hoạt cần nước ngọt và giao thông thuận lợi. Qua tra cứu, chúng tôi nhận thấy cù lao Dài thuộc phủ Vĩnh Trị dinh Long Hồ (nay là xã Qưới Thiện, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long) là một trong những nơi di dân miền Trung đầu tiên đặt chân đến khai phá. Bên cạnh đó, trong nghiên cứu làng Việt cổ truyền, chòm, xóm được xem là thành phần của làng. Chính vì vậy, chúng tôi cũng ngờ rằng các địa danh mang thành tố chòm27 ở tỉnh Vĩnh Long vốn là cách gọi nơi cư trú làng xóm của người Việt miền Bắc di cư trong giai đoạn đầu khẩn hoang, dấu vết của chúng còn tồn tại cho đến ngày nay qua kinh Chòm Tre, rạch Chòm Yên, đường Chòm Yên, bến đò Chòm Yên – Cô Bắc (H.BT), rạch Chòm Cau (H.TO).

2.2.2.2. So với sự phân bố nơi cư trú của người Việt, người Khmer thường chọn sống ở các khu đất cao ráo. Thời Đàng Cựu (thời vua Gia Long) có một đặc điểm phân biệt nhà người Việt và người Khmer như sau: hễ “xóm nhà nào day mặt vô sân không ngó ra lộ cái, hoặc ra sông sâu nước chảy, ấy là nhà người Miên, và nhà nào mọc sát mé sông có một cây dừa thả xuống nước làm cầu lên xuống hay ngó mặt ra đường có xe chạy là nhà người Việt” [140; tr.347]. Chúng ta lấy làm lạ là bởi vì sao người Khmer không xây nhà theo kiểu người Việt? Điều này có lẽ xuất phát từ phong tục tập quán của người Khmer, theo họ, khi con người bị bệnh và hôn mê thì có nghĩa là hồn đã đi nơi khác hoặc ma quỷ đã bắt họ đem nhốt nơi sông, rạch… Vì vậy, người Khmer thường có khuynh hướng lùi dần vào bên trong tạo thành những phum (phum), sóc (srôk), tha la (sala) riêng. Trong tiếng Khmer, phum, sóc chính là đơn vị cư trú xóm, làng, là hình thức tổ chức cư trú chủ yếu theo quan hệ hôn nhân, huyết

27 Hiện nay, chòm cũng là một trong những đơn vị hành chính của đồng bào dân tộc thiểu số như Dao, Mông, Mường… ở nước ta.

Một phần của tài liệu Địa danh tỉnh vĩnh long qua góc nhìn văn hóa dân gian (Trang 58 - 74)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(321 trang)