Những hạn chế của ĐNTT

Một phần của tài liệu đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 2006 2013 (Trang 32 - 35)

Chương 1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG TRƯỚC NĂM 2006

1.2. KHÁI QUÁT ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1930-2006)

1.2.2. Những hạn chế của ĐNTT

So với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, ĐNTT còn nhiều bất cập.

ĐNTT còn bộc lộ sự bất cập về chuyên môn, nghiệp vụ. ĐNTT đƣợc đào tạo về các lĩnh vực chuyên môn còn chƣa cân đối với nhu cầu xã hội. Lực lƣợng trí thức chiếm tỷ lệ thấp so với dân số, trung bình cả nước có khoảng10.000 người tốt nghiệp đại học trên 1 triệu dân (chỉ số đó ở Singapore là 16.000, Hàn Quốc là 52.000, Nhật Bản là 70.000) [1].

ĐNTT phân bố không đồng đều giữa các vùng miền, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, trong số những người có trình độ đại học trở lên thì 90% tập trung ở các trường đại học, các cơ quan Trung ương và các thành phố lớn. ĐNTT tập trung ở Hà Nội chiếm 20%, ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 14% trí thức của các nước, trong khi đó số trí thức của tỉnh Sơn La chỉ là 0,57%, tỉnh Lai Châ chỉ là 0,27% [44, tr.147-148]. Những vùng cần trí thức để phát triển KT- XH thì còn rất thiếu. Đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, lực lƣợng trí thức, nhất là trí thức có trình độ cao vẫn còn rất ít, chất lƣợng chƣa đáp ứng đƣợc với nhu cầu của thực tiễn sản xuất và đời sống.

Hiện tượng lão hóa và hẫng hụt đội ngũ kế cận tương lai xảy ra phổ biến ở các cơ quan nghiên cứu. Đây là nguy cơ lớn đối với sự phát triển đất nước. Tại các viện, trung tâm nghiên cứu khoa học năm 1995, tuổi trung bình của trí thức có học hàm, học vị là trên 50 tuổi: Tiến sỹ là 52,8 tuổi, phó giáo sƣ là 56,4 tuổi và giáo sƣ là 59,9 tuổi[7, tr.18].

Trong công tác đào tạo còn nhiều bất cập, đào tạo không gắn với thực tế nên đã gây lãng phí lớn cho ngân sách Nhà nước. Có đến 63% sinh viên tốt nghiệp không có

26

việc làm, số người có việc làm thì nhiều người không đáp ứng được với yêu cầu công việc hoặc phải đào tạo lại từ 1 đến 2 năm [29].

Bên cạnh những trí thức có tâm huyết gắn bó với nghề, với sự phát triển của đất nước thì không ít những trí thức giỏi về trình độ chuyên môn nhưng trách nhiệm xã hội và đạo đức bị suy giảm, gây những hệ lụy xấu cho xã hội.

Tiểu kết chương 1

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến năm 2006, nhìn chung Đảng luôn quan tâm xây dựng ĐNTT, tuy nhiều lúc, nhiều nơi tình trạng coi nhẹ trí thức còn diễn ra. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ĐNTT đã từng bước phát triển, gắn trách nhiệm của mình vào nhiệm vụ chung của toàn dân tộc, cùng với toàn thể nhân dân làm nên những thắng lợi vẻ vang cho dân tộc, đƣa dân tộc thoát khỏi chiến tranh, giành độc lập, cả nước đi lên xây dựng XHCN trên phạm vi toàn quốc.

Trong những năm Đổi mới, Đảng đã từng bước đổi mới trong công tác xây dựng ĐNTT, Đảng đặt đội ngũ trí thức vào liên minh công nhân – nông dân – trí thức làm nền tảng. Các chủ trương chính sách của Đảng đối với trí thức được tăng cường.

Những chủ trương, chính sách của Đảng về công tác trí thức từng bước được cụ thể hóa trong thực tiễn, ĐNTT không ngừng phát triển, có những đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước.

Tuy đã có những chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức, nhƣng chƣa đồng đều, nhiều chủ trương, chính sách chậm đi vào thực tiễn, ở nhiều nơi các cấp ủy Đảng còn coi nhẹ. Chính những hạn chế đó, đã dẫn tới những yếu kém trong ĐNTT.

Đứng trước yêu cầu của thực tiễn đặt ra, trước yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là nền kinh tế trí thức đang dần mở rộng trên phạm vi toàn cầu đã đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó có nhiệm vụ cần xây dựng đƣợc ĐNTT trí thức thực sự lớn mạnh để đƣa đất nước hòa nhịp cùng thời đại.

27

28

Chương 2

Một phần của tài liệu đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 2006 2013 (Trang 32 - 35)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(103 trang)