Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2006-2013)

Một phần của tài liệu đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 2006 2013 (Trang 36 - 44)

Chương 2 XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC (2006-2013)

2.1. CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013

2.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2006-2013)

Quan điểm nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thứcngày càng phù hợp với yêu cầu của thực tiễn Việt Nam hơn. Trong giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước, tư duy của Đảng về xây dựng ĐNTT đã có những phát triển mới. Đảng đã có sự kết hợp khéo léo giữa khoa học và tâm lý để đƣa ra hệ thống quan điểm và chủ trương xây dựng ĐNTT, được thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, Đảng tiếp tục đánh giá cao vị trí và vai trò của ĐNTT trong công cuộc đổi mới đất nước, chủ trương hoàn thiện môi trường và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ĐNTT.

Đổi mới toàn diện đất nước thực sự là một cuộc cách mạng, yêu cầu tất yếu, đòi hỏi Đảng phải tập hợp và phát huy mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là trong bối KH-CN đã trở thành lực lƣợng sản xuất chủ yếu nhƣ hiện nay. Tại Đại hội X của Đảng, Đảng đặt vấn đề rõ ràng về sử dụng trí thức và trọng dụng nhân tài: “Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao”[22, tr.212].

Theo định hướng Đại hội X của Đảng, để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nước ta cần phải: “Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa; hiện đại hóa đất nước theo định

30

hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triền kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào trí thức” [22, tr.28-29].

Đường lối gắn quá trình CNH, HĐH với nền kinh tế trí thức, phát triển mạnh mẽ KH-CN và tăng cường phát triển GD-ĐT thì việc trí thức hóa nguồn lực lao động sẽ diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn xã hội cũng nhƣ trong mọi lực lƣợng tham gia vào quá trình sản xuất. Hơn lúc nào hết đội ngũ trí thức cần phát huy vai trò to lớn của mình trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Về vị trí của người trí thức trong CNH, HĐH, phát triển kinh tế trí thức, từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6–1996) đã xác định nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là khối liên minh công nhân - nông dân – trí thức thay cho trước đây chỉ dừng lại là liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân.

Đến Đại hội X (4 – 2006) đã nâng lên tầm chiến lƣợc đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát triển quan điểm của Đại hội X, Nghị quyết 7 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X đã xác định cụ thể hơn vị trí và vai trò của trí thức trong giai đoạn hiện nay: “Trí thức Việt Nam là lực lƣợng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tƣ xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tƣ cho phát triển bền vững [26, tr.85].

Nghị quyết Hội nghị Trung ƣơng 7, khóa X (tháng 7 – 2008) về xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là lần đầu tiên, Đảng có một nghị quyết riêng về vấn đề trí thức, một bước tiến lớn của Đảng về

31

lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết vấn đề trí thức. Đảng đã không chỉ coi trí thức là một tầng lớp phối thuộc, mà đã ngang hàng với vấn đề công nhân và nông dân trong bộ ba tạo nên khối liên minh vững chắc của đại đoàn kết dân tộc.

Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã vạch ra hệ thống quan điểm, chủ trương toàn diện của Đảng về trí thức và xây dựng đội ngũ trí thức.

Trong chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, Đảng chủ trương:

“Đổi mới công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc tiến cử và sử dụng cán bộ trí thức, khắc phục tình trạng hành chính hóa, thiếu công khai, minh bạch trong khâu tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ quản lý. Xây dựng và thực hiện cơ chế tạo điều kiện để trí thức phát triển bằng chính phẩm chất, tài năng và những kết quả cống hiến của mình cho đất nước”[26, tr.93].

Đảng đã đƣa ra cơ chế quản lý ĐNTT phù hợp với đặc tính riêng của lao động trí óc. Đó là mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng trong các hoạt động nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học ở các tập thể khoa học. Tạo điều kiện rộng rãi để đội ngũ trí thức trao đổi học thuật, tiến hành phản biện có chất lƣợng các yêu cầu khoa học và lý luận. Đảng khẳng định: “Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tƣ vấn, phản biện của các hội khoa học – kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội” [22,tr.119].

Nghị quyết 7 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng đã chỉ rõ là: “Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy quyền tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước” [26, tr.91].

32

Tiếp tục chủ trương trọng dụng trí thức trong Nghị quyết Đại hội X và Nghị quyết 7 Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa X , trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI, Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lƣợng cao; tôn trọng, phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo; coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các cơ quan khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước. Có chính sách trọng dụng trí thức, đặc biệt đối với nhân tài của đất nước” [27,tr.49].Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao là một trong ba khâu đột phá quan trọng của chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020. Chiến lƣợc phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, đã xác định mục tiêu “Đƣa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc trế và ổn định xã hội, nâng cao trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận trình độ phát triển trên thế giới” [31, tr.78].

Hai là, chủ trươngtiếp tục đẩy mạnh toàn diện trong đào tạo, bồi dưỡngĐNTT.

Vấn đề trí thức liên quan chặt chẽ đến GD-ĐT. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức, trước hết phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Dựa trên cơ sở quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh: “Học để làm việc, học để làm người, làm cán bộ” [43, tr.208]. Đảng nhận thức sâu sắc và đánh giá cao vai trò GD-ĐT, KH-CN đối với phát triển ĐNTT.

Đảng xác định giáo dục và đào tạo là cơ sở để tạo ra những nhà trí thức, nhà khoa học, nhà giáo, nhà thiết kế, các chuyên gia, tổng công trình sƣ. Đại hội X xác định: “Về giáo dục và đào tạo chúng ta phấn đấu để cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao, chấn hƣng nền giáo dục Việt Nam”[22, tr.34].

Tiến hành đổi mới giáo dục một cách cơ bản, từ cơ cấu lại hệ thống đào tạo, tới nội dung chương trình, phương pháp dạy và học tích cực theo hướng phát triển tư duy, tính độc lập sáng tạo, tính liên kết phối hợp, đào tạo theo nhu cầu xã hội, nhu

33

cầu của thị trường lao động. Coi đào tạo đại học, đào tạo nghề là thị trường đào tạo để có cơ chế chính sách đầu tƣ đào tạo từ cá nhân, gia đình đến xã hội

Chủ trương phát triển mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động KH-CN với GD- ĐT để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức. Thống nhất định hướng giữa phát triển KH-CN với chấn hưng GD-ĐT, phát huy quan hệ tương tác thúc đẩy nhau giữa hai lĩnh vực quốc sách hàng đầu.

Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ƣơng lần thứ 7 khóa X, tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đối với phát triển ĐNTT.

Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, của Đảng “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”, đã nêu rõ cùng với GD-ĐT, KH-CN là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. CNH, HĐH đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ.

Đảng và Nhà nước có chính sách đầu tư khuyến khích, hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ. KH-CN là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng – an ninh. Khoa học và công nghệ gắn với giáo dục và đào tạo, khoa học tự nhiên và kỹ thuật gắn với khoa học xã hội và nhân văn. Phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân. Phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng, của các tập thể khoa học và công nghệ, của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị - xã hội và của mỗi công dân trong hoạt động khoa học, công nghệ.

Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ƣơng 8 khóa XI.

Nghị quyết nhấn mạnh giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu , là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân . Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển , được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoa ̣ch phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ

34

quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.

Balà, chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức trẻ- lực lượng kế cận tương lai.

Coi trọng hơn nữa việc trọng dụng tài năng trẻ,tạo bước chuyển có tính đột phá trong bố trí và sử dụng cán bộ trẻ trên tất cả các lĩnh vực. Đảng đã ra nhiều nghị quyết tăng cường công tác lãnh đạo đối với công tác thanh niên trong đó có lực lượng trí thức trẻ. Đảng xác định chủ trương xây dựng thế hệ trẻ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: “Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống, tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khuyến khích thanh niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm”[22, tr.120].

Vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức trẻ đƣợc Đảng nhấn mạnh rõ hơn trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hànhTrung ƣơng (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, ngày 25-7-2008, tạo cơ chế chính sách công bằng, thuận lợi để mọi tài năng trẻ đều được tham gia phát triển đất nước; bố trí cán bộ trẻ có tài năng đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng, phù hợp trong hệ thống chính trị, nâng cao tỉ lệ cán bộ trẻ trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành. Tạo bước đột phát trong việc bố trí, sử dụng cán bộ trẻ cán bộ trong độ tuổi thanh niên ở tất cả các cấp, coi đây là một nội dung quan trọng về công tác cán bộ của Đảng để lựa chọn cán bộ lãnh đạo cho tương lai…

Bốn là, chủ trương phát triển đội ngũ nữ trí thức. Nữ trí thức là một bộ phận tinh hoa của phụ nữ thuộc mọi dân tộc.

Đội ngũ nữ trí thức Việt Nam ngày càng phát huy vai trò và khẳng định chỗ đứng vững chắc của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đại hội X, Đảng khẳng định: “Bồi dƣỡng, đào tạo để phụ nữ tham

35

gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp[22, tr.120].

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HÐH đất nước, Ðảng ta đã ban hành hai nghị quyết quan trọng, đó là Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước” và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6-8-2008 của Hội nghị Trung ƣơng bảy (khóa X) “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước”. Điều này thể hiện Ðảng coi trọng vai trò, vị trí của phụ nữ, của các nữ trí thức, tạo tiền đề cho việc xây dựng các chủ trương, chính sách để phát triển đội ngũ trí thức nói chung và đội ngũ nữ trí thức nói riêng cả về số lƣợng và chất lƣợng; phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp CNH, HÐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước”, Đảng khẳng định:

Ðến năm 2020, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện tốt các chính sách nhằm phát triển cán bộ nữ trong nghiên cứu khoa học, trong lãnh đạo, quản lý. Có chính sách cụ thể về quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng, bổ nhiệm, luân chuyển đối với cán bộ nữ, đặc biệt quan tâm cán bộ nữ là trí thức, công nhân, người dân tộc thiểu số, tôn giáo. Có chính sách đặc thù đối với cán bộ nữ công tác ở vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo, là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ đi học có con nhỏ.

Đại hội XI, Đảng tiếp tục khẳng định công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ nữ: “Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số” [27, tr.59].

Năm là, chủ trương xây dựng ĐNTT văn nghệ sỹ, tiếp tục mở rộng dân chủ để phát huy năng lực, sở trường của mỗi người văn nghệ sỹ.

Một phần của tài liệu đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm 2006 2013 (Trang 36 - 44)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(103 trang)