15
Chúng tôi tạm dịch từ thuật ngữ Review. 70 1. Kiểm toán báo cáo tài chính.
Nội dung trọng tâm và xuyên suốt đã được trình bày trong hầu hết quyển sách này là
kiểm toán báo cáo tài chính.
2. Kiểm toán báo cáo tài chính cho các mục đích đặc biệt.
Trong một số trường hợp, kiểm toán viên thực hiện công việc kiểm toán để đáp ứng nhu
cầu của một số khách hàng đặc biệt , hoặc là để công nhận những tính chất đặc biệt của dữ liệu
được kiểm tra. Những báo cáo kiểm toán này được gọi là báo cáo đặc biệt, hay báo cáo cho
những mục đích đặc biệt.
Đoạn 3 của ISA 800 “ Báo cáo của kiểm toán viên về những hợp đồng kiểm toán theo các
mục đìch đăc biệt” yêu cầu :“ Nội dung, thời gian và phạm vi các công việc phải thực hiện
trong một hợp đồng kiểm toán để đưa ra các báo cáo kiểm toán theo các mục đích đặc biệt tùy
thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể. Cho nên trước khi thực hiện một hợp đồng như vậy, điều
quan trọng là kiểm toán viên phải thỏa thuận với khách hàng về tính chất chính xác của
hợp đồng, cũng như hình thức và nội dung của các báo cáo kiểm toán sẽ được phát hành.”
Dưới đây là bốn loại kiểm toán báo cáo tài chính cho các mục đích đặc biệt mà kiểm toán
viên thường cung cấp.
2.1 - Kiểm toán báo cáo tài chính được lập theo các căn cứ kế toán qui ước khác.
Trong một số trường hợp, báo cáo tài chính có thể không trình bày theo các chuẩn mực kế
toán hiện hành, mà lại trình bày theo những căn cứ kế toán khác. Khi đó, kiểm toán viên chỉ có
thể báo cáo về sự phù hợp của báo cáo tài chính với các căn cứ kế toán đó.
Sau đây, chúng tôi giới thiệu về một vài căn cứ kế toán qui ước khác có thể được sử dụng
khi lập báo cáo tài chính, đó là :
ã Kế toỏn trờn cơ sở thực thu thực chi : nghĩa là kế toỏn chỉ ghi nhận doanh thu và chi phí
khi đơn vị thật sự đã thu và chi tiền. Như vậy cơ sở này trái ngược với cơ sở dồn tích.
ã Kế toỏn trờn cơ sở thực thu thực chi cú điều chỉnh : cũng tương tự như kế toỏn treân cô
sở thực thu thực chi, ngoại trừ một số khoản như tài sản cố định và khấu hao thì vẫn dựa theo cơ
sở dồn tích.
ã Kế toỏn trờn cơ sở thuế thu nhập : Sử dụng cỏc nguyờn tắc đỏnh giỏ và đo lường của
thuế - thí dụ như khi tính khấu hao, dự phòng ... - chứ không thực hiện theo các chuẩn mực kế
toán tài chính.
16
2.2 - Kiểm toán một số bộ phận của báo cáo tài chính.
Có những trường hợp, kiểm toán viên được yêu cầu cung cấp báo cáo về một số bộ phận
của báo cáo tài chính, thí dụ về doanh thu bán hàng để làm cơ sở tính tiền bản quyền phải trả
cho người chủ sở hữu. Lúc này, trong hợp đồng có thể phải xác định về các bộ phận của báo
cáo tài chính là có phù hợp với chuẩn mực kế toán hiện hành, hoặc một căn cứ kế toán quy ước
khác hay không ?
Trước khi diễn đạt ý kiến về các bộ phận của báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phải
mở rộng phạm vi kiểm tra đối với các bộ phận có liên quan, và tiến h ành kiểm tra dựa trên mức
trọng yếu đối với các bộ phận này. Như vậy, trong trường hợp này, phạm vi kiểm tra của những
bộ phận thường rộng hơn phạm vi kiểm tra đối với chính nó khi kiểm toán toàn bộ báo cáo tài
chính.
Để tránh ngộ nhận, báo cáo kiểm toán này không được đính kèm với các báo cáo tài
chính toàn bộ của đơn vị. Trong báo cáo, kiểm toán viên phải trình bày về căn cứ kế toán được
16
Ở nhiều nước, chuẩn mực kế toán tài chính tập trung hướng dẫn về việc trình bày trung thực và hợp lý về tình
hình tài chínhvà kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Do đó trong chuẩn mực kế toán tài chính sẽ co ù những
điểm khác biệt so với thuế trong việc xác định các chi phí để tính toánthu nhập chòu thueá. 71
sử dụng, hoặc trình bày sự thỏa thuận về căn cứ kế toán với khách hàng.
2.3 - Kiểm toán sự tuân thủ các điều luật hoặc các điều khoản của hợp đồng.
Có những đơn vị hợp đồng với kiểm toán viên để phát hành các báo cáo về sự tuaân thuû
các điều khoản của hợp đồng với các đơn vị khác, hoặc về việc tuân thủ các điều luật, ví dụ
như khế ước về tiền thưởng, những thỏa thuận về các khoản vay. “... Những thỏa thuận như vậy
thường yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện đúng các khế ước có liên quan, như thanh toán lãi
vay, duy trở tỷ lệ tài chỡnh theo một mức đó định ... ” (đoạn 18 ISA 800) Chẳng hạn, kiểm toán viên có thể được yêu cầu phát hành báo cáo về sự tuân thủ hợp
đồng đối với tiền bản quyền, đó là khi tiền bản quyền được xác định trên cơ sở các thông tin tài
chính của đơn vị, thí dụ như doanh số bán ; hoặc kiểm toán viên có thể phát hành báo cáo về sự
tuân thủ theo các điều khoản đảm bảo của một hợp đồng đi vay ; hoặc việc phát hành trái phiếu
đòi hỏi đơn vị phải duy trì các tỷ suất tài chính theo một mức đã được ấn định, như lãi trên vốn,
hoặc các khoản nợ trên vốn.
Báo cáo kiểm toán có thể phát hành riêng biệt, hoặc là một bộ phận trong báo cáo kiểm
toán báo cáo tài chính. Trong báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên phải nêu lên những điều
khoản của hợp đồng, và ý kiến của kiểm toán viên về mức độ tuân thủ các điều khoản có liên
quan.
2.4 - Báo cáo về các báo cáo tài chính tóm tắt :
“ Đơn vị có thể lập báo cáo tài chình tóm tằt từ các báo cáo tài chình đã được kiểm toán
hàng năm của mình với mục đích thông báo cho những nhóm người sử dụng chỉ quan taâm chuû
yếu đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị. Nếu không đưa ra ý kiến về toàn
bộ báo cáo tài chính, kiểm toán viên sẽ không được phát hành báo cáo về các báo cáo tài
chình tóm tằt. ” (đoạn 21 của ISA 800).
Đoạn trên cho thấy rằng nếu không thực hiện kiểm toán toàn bộ các báo cáo tài chính,
kiểm toán viên không được phép phát hành báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính tóm tắt.
Điều này rất dễ hiểu, bởi vì do có những hạn chế nhất định trong việc khai báo, nên báo cáo tài
chính tóm tắt chỉ trình bày rất cô đọng, vì thế sẽ thiếu nhiều chi tiết so với các báo cáo tài chính
năm của đơn vị. Cho nên báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính tóm tắt không thể chỉ ra được
mức độ trung thực và hợp lý của toàn bộ các báo cáo tài chính. Do đó, kiểm toán viên chỉ có
thể nêu ý kiến của mình dựa trên kết quả kiểm toán toàn bộ các báo cáo tài chính năm, và phát
biểu rằng báo cáo tài chính tóm tắt đã được trình bày nhất quán với báo cáo tài chính toàn bộ.
Ngoài bốn loại báo cáo trên, tùy nhu cầu thực tế của từng quốc gia, có thể còn có những
báo cáo khác cũng được xem là báo cáo đặc biệt, như là : - Báo cáo về hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Báo cáo công bố khả năng thanh toán của ban giám đốc về việc cho phép mua lại các
coồ phieỏu v.v ...
3. Kiểm tra các thông tin tài chính tương lai.
Đoạn 3 ISA 810 “ Kiểm tra các thông tin tài chình tương lai ” đã định nghĩa :"
Các thông
tin tài chính tương lai là các thông tin tài chính dựa trên các giả định về các sự kiện có thể xảy
ra trong tương lai và các biện pháp có thể được doanh nghiệp tiến hành. Các thông tin này về
mặt bản chất mang nặng tính chủ quan, và việc chuẩn bị các thông tin đó đòi hỏi nhiều ở sự xét
đoán. Các thông tin tài chính tương lai có thể tồn tại dưới dạng một dự báo, một dự án hoặc kết
hợp cả hai, chẳng hạn gồm dự báo cho một năm cộng với năm năm cho dự án.
Hai thuật ngữ
này được giải thích trong hai đoạn 4 và 5 của ISA 810 như sau :
“ - Dự báo : là các thông tin tài chính tương lai được soạn thảo dựa trên cơ sở các giả định
về những sự kiện tương lai mà các nhà quản lý mong đợi sẽ xảy ra và các biện pháp mà những
nhà quản lý dự định tiến hành vào thời điểm mà các thô ng tin đó được lập (các giả định được 72
ước tính tốt nhất).
- Dự án : là các thông tin tài chính tương lai được soạn thảo dựa trên một trong hai cơ sở
sau :
(a) Các giả định có thể xảy ra về các sự kiện trong tương lai và các biện pháp quản lý
mà không nhất thiết là các nhà quản lý sẽ thực thi như dự định, ví dụ như khi doanh nghieọp
đang trong giai đoạn bắt đầu hoạt động hay đang dự định có thay đổi quan trọng về bản chất
hoạt động của mình.
(b) Một sự phối hợp giữa việc ước tính tốt nhất với các giả định có thể xảy ra.”
Định nghĩa trên cho thấy dự báo và dự án cùng là những thông tin tài chính tửụng lai,
nhưng dự báo được xây dựng trên cơ sở các giả định được ước tính tốt nhất, còn dự án thường
dựa trên một hay nhiều giả định có thể xảy ra và không nhất thiết là sẽ diễn ra đúng theo mong
đợi.
Như vậy, dù là dự báo hay dự án, độ tin cậy của những thông tin tài chính tương lai phuù
thuộc vào những giả định làm cơ sở để xây dựng chúng. Có những giả định là yếu tố bên ngoài,
như những điều kiện kinh tế làm ảnh hưởng đến mức giá cả, sự cạnh tranh hoặc là những chính
sách và những hoạt động của chính phủ ... Những giả định khác lại là yếu tố bên trong, nhử
hiệu quả của hoạt động, các dự án đã được lập và những thay đổi trong các hoạt động của đơn
vị ... Việc xem xét những giả định này giữ một vai trò trung tâm trong việc cung cấp những
thông tin về các dự báo hay dự án.
Các thông tin tài chính tương lai có thể được sử dụng rộng rãi hoặc hạn chế trong một số
đối tượng. Sử dụng rộng rãi có nghĩa là các thông tin này có thể dùng cho bất kỳ bên thứ ba
nào, thí dụ các dự báo tài chính trên thông báo quảng cáo cho việc bán trái phiếu cuỷa ủụn vũ.
Còn sử dụng hạn chế có nghĩa là các thông tin này chỉ được sử dụng đối với những bên thứ ba
mà người có trách nhiệm đã thỏa thuận trực tiếp, thí dụ một dự án tài chính trong hoà sô xin vay
ngân hàng.
Do việc các thông tin tài chính tương lai sẽ xảy ra như thế nào là còn tùy thuộc vào các sự
kiện trong tương lai, nên kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến rằng liệu các thông tin dự
đoán đó có thực hiện được hay không ? Ýù kiến thích hợp trong trường hợp này là liệu các thông
tin tương lai này có được trình bày thích hợp và đã được xây dựng dựa trên các giả định hợp lý
hay khoâng ?
Các thủ tục cần tiến hành trong một cuộc kiểm toán các thông tin tài chính tương lai bao
goàm :
- Tìm hiểu về tình hình kinh doanh của đơn vị và quy trình soạn thảo các thông tin tài
chớnh tửụng lai cuỷa ủụn vũ .
- Xem xét phạm vi của các thông tin tài chính quá khứ được sử dụng làm cơ sở cho quá
trình soạn thảo các thông tin tài chính tương lai.
- Xem xét tính thời gian của các thông tin tài chính tương lai bởi vì thời gian dự đoán càng
dài thì khả năng dự đoán hợp lý càng giảm xuống.
- Đánh giá nguồn và độ tin cậy của các bằng chứng làm cơ sở cho các giả định cuỷa ủụn vũ.
- Kiểm tra việc tính toán và xem xét các khía cạnh liên quan khác.
- Thu thập thư giải trình của người quản lý.
- Xem xét việc trình bày và công bố các thông tin tài chính tương lai có đầy đủ và rõ ràng
hay khoâng ?