Theo một số nghiên cứu, tỷ lệ THA ở nam thường cao hơn nữ: Ở Đức (1989), tỷ lệ THA ở nam là 30.3% so với nữ là 26.9%;Ở Canada (1995), tỷ lệ THA ở nam là 26.9% so với nữ là 18.0% [16]. Năm 2005, khi nghiên cứu ở đối tượng >40 tuổi tại 7 xã nghèo của tỉnh Trà Vinh, ghi nhận tỷ lệ THA ở nữ là 32.2% thấp hơn so với nam là 37.3%
Trong mẫu nghiên cứu, tỷ lệ BN nữ điều trị tại TYT cao gấp 2 lần nam giới (67.5% so với 32.5%). Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Phạm Thị Oanh thực hiện tại Khoa Khám, bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định năm 2007- 2008 là 57.44% ở nữ so với 42.56% ở nam và của tác giả Viên Văn Đoan là 42% nam so với 58% nữ.
Khi khảo sát về giới giữa 2 nhóm đạt và không đạt HA mục tiêu, nhận thấy tỷ lệ BN đạt HA mục tiêu không liên quan đếngiới tính.
4.3.2.2 Phân bố theo tuổi (WHO)
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi không khác biệt so với nghiên cứu của tác giả Nguyễn thị Thanh Hương là 66.12±12.01 tuổi [7]
Theo Phạm Gia Khải, khi tăng lên 10 tuổi thì nguy cơ xuất hiện THA tăng thêm 2.1 lần. THA chiếm 50% khi ≥55 tuổi đối với nam và ≥65 tuổi đối với nữ.
Theo công bố của Viện Tim mạch, (1988-1992), tỷ lệ THA là 6% ở độ tuổi 16- 39, đã tăng lên 21.5% ở độ tuổi 50-59. Một số công trình nghiên cứu cho thấy tỷ lệ THA ở người cao tuổikhá cao từ 32.88% [18] đến 38.89% [6].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ BN THA độ tuổi từ 45-59 chiếm 35.5% và độ tuổi từ 60-74 chiếm 38%. Nhìn chung BN THA có tuổi từ 45-74 chiếm tỷ lệ cao 73.5%. BN dưới 45 tuổi chỉ có 5.1%. Kết quả này cũng tương tự kết quả của Phạm thị Oanh năm 2008 tại Bình Định [14], BN THA có độ tuổi 45-60 chiếm 74.74%. Kết quả của Viên văn Đoan là 54.4% BN THA ở độ tuổi 46-60. Điều này chứng tỏ tuổi càng cao thì tỷ lệ THA càng cao.
Tuổi có liên quan đến một số bệnh lý, đặc biệt là các bệnh mãn tính. Theo nhiều công trình nghiên cứu nhận thấy, tuổi càng cao thì hệ thống động mạch càng bị xơ cứng, sự co dãn đàn hồi của thành mạch kém đi, lòng động mạch bị hẹp lại cùng với sự tăng hoạt động của thần kinh giao cảm, giảm tính nhạy cảm của các thụ thể β; nòng độ noradrenaline huyết tương tăng, … gây co mạch tăng HA.
Qua khảo sát nhận thấy tỷ lệ BN đạt HA mục tiêu có liên quan đến độ tuổi: <45 tuổi tỷ lệ đạt HA mục tiêu là 40.7%, >= 75 tuổi tỷ lệ đạt Ha mục tiêu là 21.9%. Tuổi càng cao tỷ lệ đạt HA mục tiêu càng thấp.
4.3.2.3 Phân bố theo dân tộc
Tỷ lệ người Khmer trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm 45.1% so với 52.45% người Kinh và 2.4% người Hoa. Tỷ lệ này có cao hơn so với tỷ lệ chung của người Khmer trong toàn tỉnh là 30%, tuy nhiên có thể do đây là những xã vùng sâu, cộng đồng người Khmer nhiều hơn các vùng khác.
Theo một số công trình nghiên cứu ghi nhận, tỷ lệ THA thay đổi tùy theo yếu tố chủng tộc và địa dư [21]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ BN đạt HA mục tiêu không liên quan đến dân tộc.
4.3.2.4 Phân bố theo trìnhđộ văn hóa
Qua khảo sát 532 BN THA, kết quả nhận thấy trình độ học vấn của BN THA còn rất thấp so với kết quả của Phạm thị Oanh, BN THA điều trị tại BV tỉnh có trình độ học vấn đại học cao đẳng chiếm tỷ lệ 37.02%, thì trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ mù chữ là 32.9%, tiểu học là 49.8%, trung học cơ sở là 13.3%, tỷ lệ THPT và CĐ-ĐH chỉ có 3.6% và 0.4%. Sự khác biệt này có thể do địa điểm nghiên cứu của chúng tôi là những xã nghèo, vùng sâu có đông đồng bào dân tộc Khmer, trình độ dân trí chưa cao. Đâythực sựlà một trở ngại rất lớn khi thực hiện công tác tuyên truyềngiáo dục sức khỏe trong cộng đồng.
Qua khảo sát mối liên quan giữa tỷ lệ BN đạt HA mục tiêu và trìnhđộ văn hóa chúng tôi ghi nhận tỷ lệ BN đạt HA mục tiêu không liên quan đến trình độ văn hóa.
4.3.2.5 Phân bố theo mức sống
Mức thu nhập cùng những yếu tố xã hội khác làm cho nguy cơ THA của người dân sống vùng thành thị cao gấp 2.1 lần so với người dân sống vùng nông thôn [8]. Vì nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện ở các xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên mức sống của người dân thuộc diện nghèo và cận nghèo theo tiêu chí qui định chiếm đến 56.8%.Trong đó BN THA có mức sống ≥trung bình là 43.2% tương đương với nhóm có mức sống nghèo là 43.8%.
Kết quả này có khác so với nghiên cứu của Hồ Quang Châu, nhóm THA có mức thu nhập khá là 48% cao hơn nhóm có mức thu nhập nghèo là 35.2%.
Tuy nhiên khi khảo sát mối liên quan giữa tỷ lệ ha đạt mục tiêu và mức sống chúng tôi ghi nhận tỷ lệ BN đạt HA mục tiêu không liên quan đến mức sống.
4.3.2.6 Phân bố theo nghề nghiệp
Nhận thấy tỷ lệ người già mất sức lao động chiếm 51.9%, kế đến là những người lao động chân tay (làm ruộng, nuôi trồng thủy sản, làm mướn 31.8%), tỷ lệ CNVC rất thấp (1.5%). Điều này khác với kết quả nghiên cứu của Phạm thị Oanh khi thực hiện tại bệnh viện, tỷ lệ CNVC đang làm việc là 34.95%, kết quả của Viên văn Đoan tại Hà Nội, tỷ lệ cán bộ nghỉ hưu chiếm cao nhất là 71.3%.
Sự khác biệt này có thể do đăng ký khám chữa bệnh ban đầu của BN diện BHYT khác nhau.
Qua khảo sát ghi nhận không có mối liên quan giữa tỷ lệ đạt HA mục tiêu và nghề nghiệp.
4.3.2.7 Chỉ số khối cơ thể (BMI)
Béo phì được xem như là hậu quả của sự mất thăng bằng năng lượng, cung vượt cầu và hậu quả là rối loạn chuyển hóa lipid máu. Ở các nước phương Tây, tỷ lệ béo phì chiếm 5-10% (lứa tuổi trên 40) [22]. Béo phì sẽ làm THA, ĐTĐ type 2. Ở BN nữ khi BMI tăng từ 21 lên 26 , sẽ có nguy cơ THA gấp 3 lần, nguy cơ ĐTĐ type 2 gấp 6 lần [20]. Theo nghiên cứu của Framingham cho thấy có đến 70% ở nam và 61% ở nữ bị THA có vai trò trực tiếp của mô mỡ. Nếu giảm 10kg trọng lượng cơ thể sẽ giảm được 4.6-6.0mmHg HATT và HA tâm trương [12]. Phạm Gia Khải cũng cho rằng BMI có mối tương quan chặt chẽ với THA, BMI tăng lên 1 mức độ thì nguy cơ THA tăng lên 1.8-2 lần [9].
Theo viện Dinh dưỡng trung ương, tỷ lệ béo phì tại Hà Nội (2004) là 18.47%, cao nhất ở độ tuổi 53-58 là 23% và tỷ lệ thừa cân ở nam thấp hơn nữ.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, BMI trung bình 22.05 ± 3.99
Tỷ lệ thừa cân béo phì chung là 37.6%, tỷ lệ thừa cân béo phìở nam là 32.9% vàở nữ là 39.8%. thấp hơn cóý nghĩa so với kết quả của Hồ Quang Châu là 54.11% (n=401).
Theo tác giả Tạ Văn Bình nếu giảm được 1 kg trọng lượng cơ thể sẽ giảm được 2.5mmHg số đo HA tâm thu và 1.7mmHg số đo HA tâm trương. Nếu người bệnh có THA mức độ nhẹ, sau khi can thiệp bằng lối sống, đạt được cân nặng hợp lý cóthể ngừng hoàn toàn thuốc hạ HA mà HA không tăng trở lại [4].
Tỷ lệ thừa cân béo phìở từng độ tuổi cũng khác nhau. Tỷ lệ thừa cân béo phì cao nhất ở độ tuổi 45-59 là 44.0%, kế đến là độ tuổi 60-74 với 37%. Đây cũng là 2 độ tuổi có tỷ lệ BN THA cao.
Mặc dù có sự khác nhau về chỉ số BMI trung bình giữa nhóm đạt và không đạt HA mục tiêu nhưng không ghi nhận mối liên quan giữa tỷ lệ đạt HA mục tiêu và tỷ lệ thừa cân béo phì.
4.3.2.8 Chỉ số eo hông (WHR)
Béo bụng hay béo tạng liên quan chặt chẽ đến bệnh lý mạch vành, đến hội chứng chuyển hóa. Để chẩn đoán trong trường hợp này về mặt lâm sàng thường sử dụng số đo của tỷ lệ eo/hông (WHR)[4].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, Tỷ lệ béo phì dạng nam (>0.9 đối với nam và >0.85 đối với nữ) là 64.1% cao hơn kết quả của Hồ Quang Châu là 50.12%.
Tỷ lệ béo phì dạng nam ở BN THA nữ cao hơn BN THA nam có ý nghĩa thống kê (67.1% so với 57.8%) với p<0.05. Tuy nhiên tỷ lệ đạt HA mục tiêu không liên quan đến chỉ số WHR.
Hiện nay, để đánh giá lớp mỡ phủ tạng và dưới da, trên lâm sàng, người ta có thể dùng chỉ số vòng bụng đơn thuần, được xác định bằng cách đo ngang qua rốn hoặc trung điểm giữa xương sườn cuối và mào chậu. Tại Việt nam, chỉ số này được lấy theo tiêu chí người Nam Á. Béo trung tâm được xác định khi VB≥90cm đối với nam và ≥80cm đối với nữ [17]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ béo trung tâm là (210/532) 39.5%.
Tỷ lệ béo trung tâmở nữ (180/359) 50.1%
nam (30/173) 17.3% (p<0.00001) 4.3.2.9 Tiền sử gia đình
Bệnh tim mạch ở thế hệ thứ nhất được xem là yếu tố nguy cơ của THA, Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ BN có cha hoặc mẹ bị THA là 17.3%, bệnh mạch vành là 0.9% và TBMN là 6.4%. Tỷ lệ này thấp hơn nghiên cứu của Hồ Quang Châu là 46.5% tiền sử gia đình có THA.
Tỷ lệ BN đạt HA mục tiêu không liên quan đến tiền sử bệnh tim mạch của thế hệ thứ 1
4.3.2.10 Tiền sử bản thân
Thời gian THA trung bình 3.6 ± 3.45 năm (ít nhất là 1 năm, nhiều nhất là 32 năm)
Có đến 98.3% BN đã có THA, thấp nhất là 1 năm và nhiều nhất là 32 năm, tiền sử ĐTĐ là 2.06%, TBMN 7.51% và 3.8% từng bị bệnh mạch vành. Tỷ lệ này tương đồng với Phạm thị Oanh, tỷ lệ TBMN là 5.54%, tim mạch là 4.15%.
Tỷlệ BN đạt HA mục tiêu có liên quan đến thời gian bệnh THA, thời gian bệnh càng lâu thì tỷ lệ đạt HA mục tiêu càng thấp.
4.3.2.11 Chuyển hóa đường
- THA và ĐTĐ có thể là 2 bệnh độc lập nhưng cũng có thể có mối liên quan. THA và ĐTĐ đều là yếu tố nguy cơ cho bệnh lý mạch máu. Ước tính có 30-70% biến chứng ĐTĐ có liên quan đến bệnh lý của THA.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ BN có đường huyết đói >6.1mM/L là 10.6%, tỷ lệ suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói (5.6-<6.1mM/L) là 6.3%. Tương tự kết quả của Phạm thị Oanh là 9.69%
Theo điều tra quốc gia về tình hình ĐTĐ năm 2002-2003 tại 4 vùng sinh thái của Việt Nam ghi nhận không có sự khác biệt về tỷ lệ ĐTĐ theo giới nhưng tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose ở nữ cao hơn nam [4], nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ ĐTĐ ở nữ cao hơn nam có ý nghĩa thống kê (12.3% so với 5.8%) với p<0.05. sự khác biệt này có thể do cở mẫu của chúng tôi chưa đủ lớn, cần có một nghiên cứu với cở mẫu lớn hơn.
Trong số 54 người đường huyết ≥6.1mM/L chỉ có 3 người đạt HA mục tiêu (<130/80mmHg)
- Đường niệu: Tỷ lệ đường niệu dương tính (14/532) 2.6% (1.5% - 4.5%)
4.3.2.12 Chuyển hóa lipid
- Tăng triglyceride và giảm HDL-Cholesterol là các bất thường điển hình trong hội chứng chuyển hóa. Tăng LDL-cholesterol không phải là triệu chứng chính của hội chứng chuyển hóa nhưng có vai trò quan trọng trong thực hành lâm sàng. Tất cả những BN có bất thường lipid về LDL-C, HDL-C, triglyceride nên được điều trị.
Rối loạn lipid máu (tăng triglycerid và hoặc giảm giảm HDL-C) là yếu tố nguy cơ chính của bệnh tim mạch do xơ vữa động mạch . trong nghie6nm cứu của chúng tôi, tỷ lệ BN THA có tăng triglycerid là 53.4%, HDL-C giảm ở 46.4%
xảy ra ở nữ nhiều hơn nam, LDL-C tăng ở 11.1% BN và không khác biệt ở 2 giới. Tỷ lệ này thấp hơn của Trương Thanh Hương và Trương Quang Bình, tỷ lệ người bệnh động mạch vành có rối loạn lipid máu là 67% nhưng tương tự kết quả nghiên cứu của tác giả Hồ Quang Châu, tỷ lệ rối loạn lipid trên BN THA là 43.68% (45/103)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ BN có HDL-C giảm và triglycerid tăng chiếm 32.0% (28.0% - 36.1%). Có sự khác biệt giữa nam và nữ (23.1% so với 36.2%) với p<0.05, nhưng không liên quan đến tỷ lệ đạt HA mục tiêu.
Tỷ lệ BN có tăng cholesterol toàn phần là 32.3% và tỷ lệ này ở nữ cao hơn rõ rệt nam giới (36.2% so với 24.3%) (p<0.01)
Tỷ lệ BN nữ có tăng cholesterol TP, triglycerid và giảm HDL-C cao hơn ở BN nam có ý nghĩa thống kê (p<0.05) nhưng không liên quan đến tỷ lệ đạt HA mục tiêu.
4.3.2.13 Tổn thương cơ quan đích
Tổn thương tim/ECG (162/511) 31.70% (27.68% - 35.93%) Các yếu tố chính như gia tăng lipid máu,THA, ĐTĐ sẽ dẫn đến xơ vữa động mạch và dày thất trái. Theo Dzau và Braunwald từ đây sẽ có một chuỗi biến cố dẫn đến bệnh tim mạch và tử vong: bệnh động mạch vành, thiếu máu cơ tim, huyết khối trong động mạch vành và nhồi máu cơ tim [23]
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có đến 21.0% BN có thiếu máu cơ tim trên ECG và xảy ra ở nữ nhiều hơn nam
Tổn thương tim/ECG không liên quan đến tỷ lệ đạt HA mục tiêu Tổn thương não
THA là yếu tố nguy cơ điều trị được quan trọng nhất trong dự phòng đột quị và việc điều trị làm giảm nguy cơ có ý nghĩa. Một nữa BN đột quị có tiền sử THA và có tới 40% đang uống thuốc hạ HA khi xảy ra độtquị [13]
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 40 BN THA có tiền sử TBMN chiếm tỷ lệ 7.51%
Tổn thương thận
Cho dù tiểu albumine lượng nhỏ nhưng dai dẳng (thậm chí dưới ngưỡng albumine vi niệu) và / hoặc tăng nhẹ creatinin huyết thanh trước khi điều trị THA thì đó vẫn là dự báo mạnh mẽ tình trạng bệnh tật và tử vong do bệnh tim mạch sớm [13]. Do đó, hầu hết Bn bị bệnh thận và THA dù đã điều trị nhưng có tổn thương cơ quan đích thì vẫn có nguy cơ tim mạch đáng kể.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ BN THA có creatinine máu cao là 8.6%, không có sự khác biệt giữa nam và nữ. Tỷ lệ này thấp hơncủa Hồ Quang Châu là 37.14% (39/105)
Tỷ lệ đạm niệu dương tính là 28.4%, xảy ra ở 2 giới như nhau.
BN THA có đam niệu và tăng creatinine máu là 3.2%
Tỷ lệ BN đạt HA mục tiêu không liên quan đến tổn thương tim, não nhưng có liên quan đến tổn thương thận nhất là đạm niệu.
4.3.2.14 Kiến thức về bệnh THA
Tỷ lệ BN có kiến thức đầy đủ (≥16 điểm) rất thấp chỉ có 0.4%
- Không biết thuốc HA đang dùng 94.6% (92.3% - 96.3%)
Theo nghiên cứu của Trần Đỗ Trinh năm 1992, khảo sát trên 1.716 người bị tăng huyết áp thì 67.5% không biết bệnh, 15% biết bệnh nhưng không điều trị, 13.5% điều trị nhưng thất thường và không đúng cách, chỉ có 4% là điều trị đúng. Năm 2001, Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Thị Trúc khảo sát 1.582 người từ 18 tuổi trở lên tại tỉnh Tiền Giang ghi nhận 16.1% chưa từng được đo huyết áp, 58.7% có đo huyết áp nhưng không nhớ trị số HA của mình, 10.3% biết đo HA nhưng không kiểm tra thường xuyên, và chỉ có 14.3% có ý thức kiểm tra HA định kỳ. Năm 2002, Phạm Gia Khải và cộng sự điều tra 5.012 người từ 25 tuổi trở lên ở 4 tỉnh miền Bắc Việt Nam nhận thấy chỉ có 23% biết đúng các yếu tố nguy cơ của bệnh THA.
4.3.2.15 Thực hành phòng chống THA
Tỷ lệ BN thực hành phòng chống THA tốt (≥33 điểm) 105/532 19.7%
So sánh với kết quả của Phạm thị Oanh khảo sát trên 289 BN THA có 199/289 (68.85%) BN theo dõi HA thường xuyên và 76.81% (222/289) BN uống thuốc đều đặn, 203/289 (70.24%) BN tập thể dục thường xuyên, có 254/289 (87.89%) BN không hút thuốc lá, 266/289 (92.04%) BN hạn chế uống rượu bia, các tỷ lệ này đều cao hơn (p<0.05)
Không ghi nhận sự liên quan giữa kiến thức và thực hành phòng chống THA với tỷ lệ đạt HA mục tiêu.