- Tỷ lệ bệnh nhân không tìm thấy nguồn lây chiếm 77,66%.
- Bệnh nhân có trình độ tiểu học trở xuống là 80,71%, bệnh nhân có trình độ trung học cơ sở trở lên 23,34 %, đặc biệt là có 13,20% bệnh nhân không biết chữ.
- Bệnh nhân có điều kiện kinh tế nghèo là 41,62%, TB và khá là 58,38%.
- Bệnh nhân có hoàn cảnh nhàở cơ bản 58,5 %, nhà tre lá tạm bợ 41,5%.
- Không hiểu biết rõ bệnh lao : 88 người, tỷ lệ 58.27
- Không quan tâm vì không biết nguồn lây: 44 người, tỷ lệ 29.13%
- Sợ bệnh bị xã hội chê cười : 19 người, tỷ lệ 12.58%
KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu tình hình phát hiện và quản lý điều trị lao phổi mới tại huyện Trà Cú tỉnh Trà Vinh, chúng tôi kiến nghị như sau:
-Tăng cường công tác truyền thông giáo dục về bệnh lao bằng nhiều hình thức như tăng cường thời lượng trên thông tin đại chúng để người có học vấn thấp dễ nghe, dễ hiểu và làm theo vế cách phát hiện phòng bệnh và điều trị bệnh lao.
- Phát huy hơn nữa vai trò của cán bộ y tế cơ sở nói chung và cán bộ chuyên trách phòng chống lao về truyền thông kiến thức phòng chống lao, tăng cường khả năng khám sàng lọc bệnh nhân có triệu chứng nghi ngờ lao, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
- Tăng cường công tác chẩn đoán và điều trị lao cho cán bộ chuyên trách và cộngtác viên y tế thôn bản của Chương trình chống lao quốc gia như tập huấn, đào tạo, đào tạo lại…
- Trạm y tế cơ sở quản lý tốt hơn nữa bệnh nhân đãđược phát hiện lao phổi theo chiến lược DOTS.
- Quản lý tốt y tế tư nhân, cặp nhật kiến thức giám sát , quản lý bệnh nhân lao theo chương trình DOTS để đội ngũ thầy thuốc này tham gia tốt chương trình chống lao quốc gia trong giai đoạn hiên nay và góp phần sớm loại trừ bệnh lao.
KHẢO SÁT HÀNH VI TÌM KIẾM DỊCH VỤ VÀ THỰC TRẠNG ĐIỀU KIỆN TIẾP CẬN,
SỬ DỤNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE
CỦA NGƯỜI DÂN TỘC KHMER TẠI TỈNH TRÀ VINH
-Bùi Văn Minh: Phó Giám đốc Sở Y tế Trà Vinh - Nguyễn Văn Lơ: Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng TV - Nguyễn Văn Thương: TP Nghiệp vụ Dược- Sở Y tế TV
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát hành vi tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe của đồng bào dân tộc Khmer tại tỉnh Trà Vinh trong mối liên quan với thực trạng điều kiện tiếp cận, sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe và các yếu tố ảnh hưởng.
Phương pháp nghiên cứu: Dùng phương pháp nghiên cứu điều tra xã hội học.
Kết luận:
- Xu hướng chọn dịch vụ KCB của người dân tộc Khmer vẫn thiên về hệ thống y tế công lập 77.40%.
- Còn tồn tại một bộ phận người dân tộc Khmer có:
+ Trình độ hiểu biết về sử dụng thuốc còn thấp nên có đến 28.96% số người có thói quen tự mua thuốc điều trị, 8.31% số người không biết được trình độ chuyên môn của người trực tiếp bán thuốc cho họ sử dụng, chỉ có 54.42% số người hiểu đúng về người hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn nhất, đa số còn lại hiểu rất sai lệch về vấn đề này, thậm chí có ý kiến cho rằng Y tá là người hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn nhất.
+ Trình độ hiểu biết về lựa chọn và sử dụng dịch vụ y tế còn thấp, vẫn còn 0.78% số người đến thầy lang chữa bệnh, nhưng nếu đến khám tại các PK tư nhân thì có đến 69.61% số người có thói quen thanh toán trọn gói, họ chỉ muốn khám bệnh và mua thuốc tại cùng một nơi và thanh toán chi phí KCB và thuốc men một lần duy nhất.
+ Trình độ hiểu biết về các quy định của pháp luật trong lĩnh vực KCB còn thấp. Có đến 31.56% số người không phân biệt được nhiệm vụ của Bác sĩ và Dược sĩ, hơn 50% số người cho rằng Bác sĩ vừa khám bệnh kê đơn vừa bán thuốc và Dược sĩ bán thuốc theo lời khai triệu chứng của người bệnh là không vi phạm, vì thế khi có vấn đề về sức khỏe họ ngại đến KCB tại các cơ sở y tế công
lập nên thường hay chọn giải pháp tự điều trị hoặc đi khám bệnh tại hệ thống PK tư nhân.
- Trong hệ thống y tế tư nhân còn vấn đề bất cập “Bác sĩ bán thuốc, Dược sĩ kê đơn”, có đến 76.23% số người vừa khám bệnh vừa mua thuốc tại PK tư nhân.
- Đội ngũ nhân lực DSĐH không đủ để thực hiện lộ trình GPP.
1.ĐẶT VẤN ĐỀ
Con người là nguồn tài nguyên quan trọng nhất quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khỏe là vốn quý nhất của con người và của toàn xã hội, đây cũng là một trong những niềm hạnh phúc nhất của mỗi người, mỗi gia đình.
Vì vậy, đầu tư cho sức khỏe chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân là trách nhiệm của toàn xã hội.
Tăng cường hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số là nội dung hết sức quan trọng của chính sách y tế định hướng công bằng hiệu quả.
Điều kiện kinh tế - xã hội và học vấn nói chung và các chỉ số sức khỏe nói riêng của người dân tộc Khmer còn nhiều hạn chế; Một số thói quen, tập tục lạc hậu có ảnh hưởng đến sức khỏe và cách tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi ốm đau. Hành vi không tìm kiếm dịch vụ CSSK phù hợp hoặc tự điều trị (tự mua thuốc) còn khá phổ biến.
Tình hình sử dụng kháng sinh của người dân tỉnh Trà Vinh nói chung, người dân tộc Khmer nói riêng không tuân thủ quy chế kê đơn và bán thuốc theo đơn. Hầu hết các phòng khám, nhà thuốc, đại lý thuốc,… luôn sẳn có các loại kháng sinh và bán một cách rộng rãi. Kháng sinh thường xuyên bị lạm dụng, sự tuân thủ các quy định chuyên môn trong lĩnh vực hành nghề Y Dược không phải lúc nào cũng chấp hành tốt, đó cũng là nguyên nhân làm cho việc dùng kháng sinh tự do, tùy tiện của người dân và dẫn đến hậu quả:
- Chất lượng chăm sóc sức khỏe kém làm gia tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong.
- Gây lãng phí tiền bạc và thời gian.
- Khó kiểm soát các tác dụng không mong muốn các phản ứng có hại của thuốc.
Để tìm hiểu việc sử dụng các dịch vụ y tế của người dân tộc Khmer có luôn luôn đúng không? Những yếu tố nào đã ảnh hưởng đến quyết định dùng thuốc?
Kháng sinh đã bị lạm dụng đến mức độ nào? Thực trạng điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ CSSK của người dân tộc Khmer? Những yếu tố ảnh hưởng đến và hành vi tìm kiếm dịch vụ CSSK. Chúng tôi tiến hành tiến hành nghiên cứu “ Khảo sát hành vi tìm kiếm dịch vụ và thực trạng điều kiện tiếp cận, sử dụng chăm sóc sức khỏe của người dân tộc Khmer tại tỉnh Trà Vinh ”.
Mục tiêu nghiên cứu:
Khảo sát hành vi tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe của đồng bào dân tộc Khmer tại tỉnh Trà Vinh trong mối liên quan với thực trạng điều kiện tiếp cận, sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe và các yếu tố ảnh hưởng.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu
Phỏng vấn một thành viên trong một hộ gia đình người dân tộc Khmer tại tỉnh Trà Vinh của mẫu nghiên cứu ngẫu nhiên đã được chọn.
2.2. Cở mẫu nghiên cứu
Áp dụng công thức chọn mẫu như sau:
N = Z2(1-α/2) × 2
) 1 (
d p p
= (1,96)2× (0,05)2
) 5 , 0 1 ( 5 , 0
= 384,16 (≈ 384 mẫu) - N: Cỡ mẫu nghiên cứu
- Z: Hệ số giới hạn tin cậy
- α:Mức ý nghĩa thống kê,với α= 95%, ta có Z(1-α/2)= 1,96 - p:Tỷ lệ ước tính của các nghiên cứu trước đó, (p = 0,5) - Khi đó p(1-p):là lớn nhất nên thu được cở mẫu tối đa - d:Khoảng chênh lệch cho phép,( d= 0,05)
Để tránh sai sót trong thiết kế chọn mẫu điều tra, nên lấy hệ số thiết kế là 2, do đó số mẫu cần lấy là: 770 mẫu.
2.3. Cách chọn mẫu
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn trên 08 huyện, thành phố của tỉnh Trà Vinh theo danh sách quản lý người dân tộc Khmer của Ban Dân tộc tỉnh Trà Vinh.
2.4. Tiêu chí chọn mẫu
Thành viên của hộ gia đình mẫu chọn, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, không phải là người có trình độ chuyên môn về khám chữa bệnh, có quyền quyết định lựa chọn hàng hóa và dịch vụ y tế trong hộ gia đình.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
Mỗi hộ gia đình mẫu chọn được phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi điều tra được thiết kế đáp ứng với mục tiêu nghiên cứu cụ thể.
Lực lượng điều tra là các nhân viên y tế thôn bản (khóm, ấp) có kinh nghiệm trong công tác. Các cán bộ này đã được tập huấn kỹ bộ câu hỏi trước khi tiến hành điều tra nhằm:
- Đảm bảo nắm vững yêu cầu điều tra,
- Thống nhất nghĩa củacác từ dùng trong bộ câu hỏi,
- Thống nhất một số quy ước đãđược dùng trong bộ câu hỏi,
- Thống nhất về kỹ thuật phỏng vấn để thu thập thông tin, cách ghi chép thông tin vào bộ câu hỏi.
Bộ câu hỏi được thiết kế với những câu hỏi mở xen lẫn những câu hỏi đóng để một mặt thu thập được nhiều thông tin chi tiết, mặt khác giúp cho việc phân tích và thống kê biểu mẫu dễ dàng hơn [10]. Các phiếu điều tra sau khi thu thập được sẽ chuyển về tổ thu thập thông tin để rà soát lại, tránh bỏ sót những thông tin yêu cầu chưa thu thập được và tùy trường hợp mà có thể phúc tra lại nhằm đảm bảo tính chính xác của thông tin.
2.6. Nội dung nghiên cứu
- Sở thích lựa chọn dịch vụ y tế:
+ Khuynh hướng lựa chọn dịch vụ y tế: y tế công lập hay y tế tư nhân, bảo hiểm y tế,…
+ Khuynh hướng tự điều trị,
- Sở thích lựa chọn và sử dụng thuốc:
+ Khuynh hướng lựa chọn thuốc, + Thói quen sử dụng thuốc,
+ Sử dụng Kháng sinh,… sự hiểu biết về việc sử dụng Kháng sinh (nếu có), Các Kháng sinh thường được sử dụng,
+ Sự hiểu biết sơ đẳng nhất về những quy định của pháp luật trong lĩnh vực khám chữa bệnh và cungứng thuốc trực tiếp đến tay người sử dụng.
2.7. Một số quy ước dùng trong bộ câu hỏi 2.7.1. Khái niệm bệnh:
Là khi có giảm hoạt động sinh hoạt, lao động hoặc phải nghỉ việc ít nhất một ngày, hoặc phải nằm nghỉ tại giường, hoặc phải sử dụng ít nhất một loại thuốc điều trị.
2.7.2. Đánh giá chất lượng phục vụ của cơ sở y tế:
Dựa trên chất lượng chức năng (Functial quality):
- Thái độ phục vụ được xác định bởi 2 giá trị.
+ Thái độ phục vụ tốt: Bệnh nhân cho rằng cán bộ y tế nhiệt tình, không quát nạt, không gợi ý ra phòng mạch tư. Khi bệnh nhân hoặc người nhà báo cáo trở bệnh, phải có mặt nhân viên y tế ngay nếu điều trị nội trú (đối với hệ thống y tế công lập).
+ Thái độ phục vụ không tốt: Cán bộ y tế gợi ý biếu quà, tiền, hoặc phân biệt đối xử giữa các bệnh nhân.
- Tin tưởng vào trình độ chuyên môn, tay nghề của nhân viên y tế:
Khi bệnh nhân cho rằng mình được điều trị đúng mức và cảm nhận tình trạng bệnh tật giảm, được cán bộ y tế giải thích tình trạng bệnh tật, được cán bộ y tế chú ý lắng nghe ý kiến trình bày, được hướng dẫn dùng thuốc rõ ràng.
- Không tin tưởng vào trìnhđộ chuyên môn, tay nghề của nhân viên y tế:
Khi có một trong những yếu tố: không được giải thích về tình trạng bệnh tật, hoặc không được hướng dẫn sử dụng thuốc rõ ràng, hoặc không được thầy thuốc chú ý lắng nghe.
- Trang thiết bị: Xác định bởi 2 giá trị khi bệnh nhân được hưởng từ trang thiết bị của cơ sở y tế.
+ Tin tưởng: Bệnh nhân được chỉ định làm các xét nghiệm CLS: Xét nghiệm máu, X-Quang, Siêu âm, Điện tim,… phải được thực hiện bằng máy móc, TTB có sẳn tại cơ sở. Các kết quả cho bởi máy móc và TTB của cơ sở cho kết quả đúng với các kết quả cho bởi máy móc và TTB của cơ sở khác trong cùng thời điểm.
+ Không tin tưởng: Nếu bệnh nhân phải đi làm một trong các xét nghiệm CLS: Xét nghiệm máu, X-Quang, Siêu âm, Điện tim,… cần thiết khi có chỉ định của Bác sĩ ở một cơ sở khác mà cơ sở hiện tại không có sẳn. Hoặc là kết quả không đúng với kết quả của các cơ sở khác trong cùng thời điểm.
- Bệnh viện tuyến trên hay các bệnh viện tư nhân tại TP HCM hay các tỉnh khác mà bệnh nhân có đến điều trị vẫn được xem là một cơ sở cung cấp dịch vụ y tế, không phân biệt trong hay ngoài khu vực khảo sát.