4.2.1. Tỷ lệ bệnh nhân được quản lý điều trị tại các trạm y tế của huyện Trà Cú
Qua bảng 3.8, chúng ta thấy rằng tỷ lệ bệnh nhân được quản lý điều trị theo chương trình DOTS tại các Trạm y tế xã là 100% tổng số bệnh nhân lao phổi mới phát hiện, trong đó lao phổi AFB(+) chiếm 72,69%. Khi đã có chẩn đoán xác định lao phổi bệnh nhân được quản lý điều trị theo chiến lược DOTS.
Hàng tháng bệnh nhân đến nhận thuốc tại trạm y tế theo quản lý tay ba ( cán bộ chống lao huyện - bệnh nhân- cán bộ chuyên trách trạm y tế), đối với bệnh nhân trong giai đoạn điều trị tấn công thì hàng ngày bệnh nhân đến tiêm thuốc tại trạm y tế và uống thuốc dưới sự kiểm soát của cán bộ trạm y tế. Hơn nữa trong quá trình quản lý điểu trị, theo dõi sát diễn biến hàng ngày của từng bệnh nhân, Y Bác ỹ tại trạm y tế sẽ phát hiện kịp thời tác dụng phụ của thuốc nếu có, hướng dẩn bệnh nhân bồi dưỡng sức khỏe đúng cách, bù dịch và tăng cường sinh tố nếu bệnh nhân bị suy kiệt, nhất là trong 2 tháng đều điều trị bệnh nhân rất dễ bị suy kiệt và bỏ trị.
4.2.2. Tuổi và giới của bệnh nhân
Trong 197 bệnh nhân quản lý điều trị năm 2010 tại huyện Trà Cú có 67%
là nam và chỉ có 33% là nữ và độ tuổi chủ yếu là từ 15-54 tuổi. Điều này cũng phù hợp với tình hình mắc lao chung về tuổi và giới như đã nêuở phần trên.
4.2.3. Lý do chính bệnh nhân đến khám và phát hiện bệnh
Triệu chứng để bệnh nhân đến khám chủ yếu là triệu chứng tại cơ quan hô hấp, trong đó ho khạc kéo dài chiếm 72,08%, ho ra máu 16,24%, đau ngực-
khó thở 66%. Triệu chứng toàn thân như sốt, mệt mỏi, chán ăn chiếm 42,13%.
Triệu chứng toàn thân thường kèm với triệu chứng tại cơ quan hô hấp khi bệnh nhân bị lao phổi. Bởi vì khi có triệu chứng tại cơ quan hô hấp đặc biệt là khi ho khạc đàm kéo dài hoặc ho ra máu bệnh nhân mới nghĩ là mình có thể bị lao phổi và mới chịu đi khám để phát hiện bệnh.
4.2.4. Thời gian khởi phátbệnh
Qua nghiên cứu thời gian khởi phát bệnh của 197 bệnh nhân quản lý điều trị ở bảng 3.11. chúng tôi nhận thấy rằng có 66,5 % bệnh nhân được phát hiện trong 2 tháng đầu và trong đó có 23,35% bệnh nhân có thời gian khởi phát tương đối sớm < 3 tuần, và có 33,5 % bệnh nhân có thời gian khởi phát trên 2 tháng. Như vậy cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân phát hiện lao muộn trên 2 tháng còn khá cao. Tuy công tác truyền thông giáo dục sức khỏe về bệnh lao của chương trình Phòng chống lao quốc gia ở địa phương những năm gần đây làm rất tốt, nhưng vẫn còn một bộ phận người dân còn chủ quan chưa thật sự quan tâm đến sức khỏe của bản thân và thân nhân trong gia đình khi có biểu hiện ho khạc kéo dài, thậm chí còn có phần đông cán bộ viên chức còn mặc cảm, e ngại khi đi khám chuyên khoa, xét nghiệm đàm…
4.2.5. Yếu tố nguồn lây
Trong nghiên cứu của chúng tôi có tới 77,67% không tìm thấy nguồn lây, chì có 23,33% là có nguồn lây trực tiếp từ gia đình. Do vậy, để đạt được mục tiêu cuối cùng là thanh toán bệnh lao thì cán bộ quản lý CTCLQG ở địa phương cần có kế hoạch phát hiện tất cả các trường hợp lao nói chung trong đó ưu tiên các trường hợp lao phổi AFB(+) và thực hiện quản lý điểu trị tốt tất cả bệnh nhân đã được phát hiện theo chương trình DOTS.
4.2.6. Trình độ học vấn vàđiều kiện kinh tế
Trong nghiên cứu của chúng tôi có tới 76,66% có trình độ học vấn thấp, trong đó không biết chữ 13,20%, biết đọc biết viết 36,04%, tiểu học 31,47 %, từ trung học cơ sở trở lên chỉ chiếm 23,34 %. Có 41,62 % bệnh nhân thuộc diện nghèo, nghĩa là có mức thu nhập bình quân bằng hoặc thấp hơn 200 ngàn đồng/
tháng ở vùng nông thôn huyện Trà Cú, có 58% bênh nhân có thu nhập trung bình trở lên, đặc biệt có 15% bệnh nhân có kinh tế khá . Như vậy, ngoài yếu tố nghèo để bệnh lao phát triển sẽ còn có nhiều yếu tố khác nữa.
4.2.7. Hiểu biết về bệnh lao
Có 94,42% hiểu biết về bệnh lao, ở vùng nông thôn huyện Trà Cú với đặc thù là vùng đông đồng bào Khmer và học vấn thấp thì cán bộ y tế phải phát huy rất nhiều trong công tác truyền thông về bệnh lao của CTCLQG.
4.2.8. Phương tiện đi lại và thời gian từ nhà bệnh nhân đến trạm y tế
Bệnh nhân được quản lý điều trị là người sống tại địa phương, được quản lý tại các trạm y tế xã, bình quân khoảng cách từ nhà bệnh nhân đến trạm y tế
xã là 2,27 km và thời gian đi bộ cũng dưới 30 phút, điều này phù hợp với sự phân bố y tế theo cụm dân cư trong chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu.
4.2.9. Tổn thương trên X quang phổi trước điều trị
Toàn thể bệnh nhân được quản lý điều trị tại Trà Cú năm 2010 có 99 % bệnh nhân có tổn thương phổi trên film X quangở mức độ I và II là mức độ nhẹ và vừa, chỉ có 1,01% tổn thương mức độ III là mức độ nặng. Điều này có thể hiểu là bệnh nhân chúng tôi được phát hiện ở giai đoạn tương đối sớm, bằng chứng là thời gian khởi phát bệnh sớm < 3 tuần chiếm 23,35% và chỉ có 33%
bệnh nhân đến khám sau 2 tháng kể từ khi có triệu chứng lâm sàng.
4.2.10. Phác đồ điều trị lao phổi mới
Theo quy định của CTCLQG thì tất cả bệnh nhân lao mới được sử dụng phác đồ 2SHRZ/6HE. Không có chống chỉ định hoặc trở ngại khi dùng Streptomycin như dị ứng hoặc bất tiện trong sử dụng…
4.2.11. Số bệnh nhân được xét nghiệm đàm theo dõi và kết quả
Chương trình chống lao của huyện Trà Cú, tất cả bệnh nhân lao đều được cán bộ chuyên trách tại trạm y tế tổ chức cho xét nghiệm ở cả 3 thời điểm như chương trình quyđịnh cho các trường hợp lao phổi AFB(+), trong nhóm nghiên cứu này thì sau 2 tháng điều trị có 100% bệnh nhân xét nghiệm đàm và kết quả 97% âm tính, có 6 trường hợp còn (+) chiếm 3%. Sau tháng thứ 5 có 195 bệnh nhân xét nghiệm đàm chiếm 97,46%. Số âm hóa đàm là 98,9%, số bệnh nhân suy kiệt 8 bệnh, bệnh nhân tử vong 2 bệnh. Sau 8 tháng điều trị có 135 bệnh nhân đến xét nghiệm, tỷ lệ 100 %, kết quả âm hóa đàm là 100%.
4.2.12. Kết quả kiểmtra X quang trong quá trìnhđiều trị
Sau 2 tháng điều trị có 100% bệnh nhân chụp X quang kiểm tra, kết quả có 28 bệnh nhân lao phổi AFB(+) tổn thương tên X quang chưa ổn định, chiếm 20,74%. Sau 8 tháng thì có 127 bệnh nhân chụp X quang phổi kiểm tra, chiếm 93,3%, kết quả 45,18% tổn thương phổi trên X quang được xoá, 40,74% thu gọn, 8,14% chưa ổn định.
4.2.13. Đánh giá kết quả điều trị
- Đối với các trường hợp lao phổi AFB(+): chúng ta thấy tỷ lệ điều trị khỏi là 68,52%, đang điều trị ổ định chưa đủ thời gian là 30,45%, chết là 1,01%
không có bệnh nhân chuyển đi nơi khác, không có trường hợp nào bỏ trị. Như vậy, tỷ lệ khỏi bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi tính đến đầu tháng 11/2010 là 68,52%, tuy chưa đạt theo mục tiêu đề ra của CTCLQG là điều trị khỏi ít nhất 85% lao phổi AFB(+), nhưng chúng tôi còn có 30,45% đang quản lý điều trị ổn định trong giai đoạn duy trì. Có 2 trường hợp tử vong (chiếm 1,01%) trong giai đoạn điều trị tấn công do phát hiện muộn, bệnh nặng, bệnh nhân suy kiệt, trong đó có một bệnh nhân nghèo và một bệnh nhân kinh tế giàu.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu tình hình phát hiện và quản lý điều trị bệnh lao phổi mới tại huyện Trà Cú tỉnh Trà Vinh, chúng tôi rút ra kết luận như sau :