Một số yếu tố nguy cơ tiền đái tháo đường trên người ≥ 45 tuổi

Một phần của tài liệu KỈ YẾU NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NGÀNH Y TẾ (Trang 150 - 153)

4.2.1. Các yếu tố thuộc về sức khỏe hiện tại

Tăng huyết áp: Tăng huyết áp có thể xảy ra trong bối cảnh hội chứng chuyển hóa, tăng huyết áp là một yếu tố nguy cơ của ĐTĐ [3][10]. Bệnh nhân ĐTĐ thường đi kèm với tăng huyết áp. Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi chưa thấy yếu tố tăng huyết áp có liên quan đến TĐTĐ (OR = 1,2, p > 0,05).

Vòng bụng:Kết quả nghiên cứu này cho thấy có sự liên quan giữa chỉ số đo vòng bụng theo tiêu chuẩn người châu Á và TĐTĐ. Nhóm đối tượng có chỉ số

đo vòng bụng béo phì dạng nam (nam ≥ 90 cm, nữ ≥ 80 cm) sẽ có nguy cơ mắc TĐTĐ cao hơn 1,9 lần nhóm khác (OR = 1,9; p < 0,01).

BMI: Béo phì là nguy cơ dẫn đến ĐTĐ, tăng huyết áp, bệnh tim mạch, bệnh túi mật, và một số loại ung thư [2]. Chỉ số BMI là chỉ số được dùng để chẩn đoán béo phì. Theo tiêu chuẩn của người Châu Á, nghiên cứu này cho thấy rằng nhóm người thừa cân/béo phì có chỉ số BMI cao (≥ 23 kg/m2) sẽ có nguy cơ mắc bệnh TĐTĐ cao hơn 1,8 lần nhóm có BMI thấp và bình thường (OR=

1,8; p < 0,05).

Chỉ số phần trăm mỡ cơ thể: Theo tác giả Nguyễn Thị Kim Hưng, người có tỷ lệ mỡ cơ thể cao sẽ có nguy cơ rối loạn đường huyết cao hơn 2,5 lần [2].

Nghiên cứu này thể hiện rằng chỉ số mỡ cơ thể có liên quan đến TĐTĐ. Nhóm người có chỉ số mỡ cơ thể cao sẽ có nguy cơ mắc TĐTĐ hơn 2.4 lần nhóm khác.

Chỉ số mỡ cơ thể là yếu tố nguy cơ của TĐTĐ (OR = 2.4, p < 0,001).

Chỉ số mỡ nội tạng:Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chưa cho thấy nhóm người có chỉ số mỡ nội tạng cao sẽ có nguy cơ mắc tiền đái tháo đường nhiều hơn nhóm người có chỉ số mỡ nội tạng bình thường (OR = 1,3; p > 0,05).

4.2.2. Các yếu tố thuộc về hành vi

Hút thuốc lá: Thuốc lá có thể làm tăng tình trạng kháng insulin và kích thích tiết những hormon stress – cả hai yếu tố này làm tăng mức đường trong máu [8]. Trong nghiên cứu này, yếu tố hút thuốc lá chưa biểu hiện liên quan đến TĐTĐ (OR = 1,4; p > 0,05).

Thói quen uống rượu, bia: Lượng rượu bia tiêu thụ hàng ngày nhiều và lâu dài có thể làm tăng hoặc giảm đường huyết ở người bệnh ĐTĐ [6]. Nghiên cứu này cho thấy rằng trong cộng đồng dân cư này, thói quen uống rượu bia chưa có liên quan đến TĐTĐ (OR = 1,3; p > 0,05).

Thói quen ăn ngọt: Nhiều tác giả cho rằng, thói quen ăn ngọt không liên quan trực tiếp đến ĐTĐ. Tuy nhiên, nghiên cứu này cho thấy rằng những người có thói quen ăn ngọt có nguy cơ mắc tiền ĐTĐ 1,8 lần cao hơn những người khác (OR = 1,8; p < 0,05). Có thể giả thuyết rằng những người có thói quen ăn ngọt sẽ thường ăn nhiều thức ăn, nước uống ngọt giàu năng lượng và sẽ tích tụ năng lượng dư thừa là nguyên nhân của béo phì và kháng insuline. Mối liên quan giữa chế độ ăn nhiều carbonhydrate với sự gia tăng của bệnh béo phì–một yếu tố nguy cơ ĐTĐ –thì đã được chứng minh [5].

Chế độ ăn, uống nhiều đường hàng ngày: Trong nghiên cứu này, có sự liên quan giữa chế độ ăn uống nhiều đường hàng ngày với bệnh TĐTĐ. Người có chế độ ăn nhiều đường hàng ngày có nguy cơ mắc TĐTĐ cao hơn 2,4 lần người khác (OR = 2,4; p < 0,01).

Thói quen ăn nhiều mỡ: Tiêu thụ nhiều acide béo không bào hòa liên quan đến tình trạng rối loạn lipid máu. Chế độ ăn ít mỡ làm giảm cholesterol toàn phần, LDL.cholesterol, triglicerides và tăng HDL.cholesterol [6]. Tạ Văn Bình

(2007) đã nghiên cứu 1200 người ở Hà Nội cho thấy rằng người có thói quen ăn nhiều mỡ có tỷ lệ ĐTĐ và yếu tố nguy cơ gấp 4 lần nhóm chứng [4]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, người có thói quen ăn nhiều mỡ có nguy cơ mắc tiền đái tháo đường gấp 2,8 lần nhóm chứng (OR = 2,8; p < 0,01).

Thói quen ăn rau mỗi ngày: Theo Tạ Văn Bình (2007), tỷ lệ người mắc bệnh ĐTĐ và yếu tố nguy cơ cao hơn ở nhóm người có thói quen ăn rau [4].

Nguy cơ mắc bệnh TĐTĐ ở người có thói quen ăn rau mỗi ngày và không có thói quen này không khác nhau (OR = 0,9; p > 0,05). Có thể do quần thể nghiên cứu chúng tôi là dân cư ởnông thôn nên chế độ ăn hàng ngày đa số có nhiều rau.

Thói quen ăn đêm sau 20 h: Ăn đêm làm tăng nồng độ đường trong máu về đêm và sáng. Trong nghiên cứu này, ăn đêm không là yếu tố nguy cơ mắc bệnh TĐTĐ (OR = 1,0; p > 0,05).

Vận động thể lực ≥ 30 phút/ngày, >5 ngày/tuần: Vận động thể lực có liên quan mật thiết với đái tháo đường. Lối sống tĩnh tại, ít vận động đã được khẳng định là yếu tố nguy cơ của ĐTĐ. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cho thấy nguy cơ mắc bệnh TĐTĐ không có sự khác nhau giữa nhóm người có vận động thể lực lực ≥ 30 phút/ngày, > 5 ngày/tuần và nhóm khác (OR = 1,0; p > 0,05).

Có thể quần thể nghiên cứu là vùng nông thôn, dân cư lao động chân tay nên yếu tố nàyảnh hưởng không rõ ràng.

Stress: TĐTĐ có thể được gây nên bởi tình trạng kháng insuline do stress.

Stress làm gia tăng hàm lượng catecholamin và steroid cortisol trong máu dẫn tới tình trạng thừa cân [9]. Trong nghiên cứu này, yếu tố stress chưa thấy có liên quan rõ ràng đến TĐTĐ (OR = 1,6; p > 0,05).

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu 1226 đối tượng ≥ 45 tuổi tại huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, chúng tôi ghi nhận như sau:

(1) Tỷ lệ TĐTĐ hiện mắc tại Huyện Cầu Ngang, Trà Vinh là 19.5%, và tỷ lệ đái tháo đường là 9.4 %.

(2) Kết quả phân tích nghiên cứu bệnh chứng trên 100 đối tượng TĐTĐ và 200 chứng có thể đưa ra các kết luận sau:

Các yếu tố nguy cơ của TĐTĐ bao gồm: Thừa cân/béo phì, béo bụng, tỷ lệ mỡ cơ thể cao, thích ăn/ uống ngọt, thói quen ăn/uống nhiều đường, thói quen ăn nhiều mỡ.

NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH CHĂM SÓC THAI SẢN CỦA CÁC BÀ MẸ TẠI HUYỆN CÀNG LONG,

TỈNH TRÀ VINH NĂM 2010

Thực hiện BS. Lê Thị Quăng và cộng sự.

TÓM TẮT

Nghiên cứu thực hiện trên 1224 bà mẹ sinh con từ tháng 06/2009 đến tháng 05/2010 nhằm xác định tỷ lệ sử dụng dịch vụ chăm sóc thai sản và phân tích một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ sử dụng dịch vụ chăm sóc thai sản. Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

Tỷ lệ bà mẹ đi khám thai 99,5% trong đó khám thai ≥ 3 lần 84,7%, không khám thai 0,5%. Tiêm phòng uốn ván đủ liều 95,5%. Uống viên sắt đúng và đủ thời gian 18,8%. 60,4% mà mẹ khi mang thai ăn nhiều hơn bình thường; 64,7%

lao động nhẹ nhàng, nghỉ trước sinh ≥ 30 ngày 48,6%. 51,8% bà mẹ tăng 10- 12kg trong thai kỳ. Bà me sinh con tại cơ sở y tế 99,6%, trong đó sinh tại Trạm y tế 11,7%, sinh ở Bệnh viện tỉnh 66,1%. Bà mẹ được cán bộ y tế đỡ đẻ 99,6%

trong đó sinh thường 90,4%, sinh chỉ huy 0,1%, sinh hút 0,8%, sinh mổ 8,7%.

Trở ngại khi sinh 0,6%, xử trí tại chổ. Trẻ dưới 2500g 2,2%, trẻ non tháng 1,2%, trẻ bị dị tật bẩm sinh 0,1%. Chăm sóc sau sinh: Nhân viên y tế ấp chăm sóc 62,8%, BS, YS, NHS chăm sóc 33,7%, Mụ vườn chăm sóc 0,3%, không chăm sóc 3,2%. Bà mẹ được chăm sóc sau sinh 1 tuần 91,8%, bà mẹ được chăm sóc sau sinh 6 tuần 74,8%. Kiến thức về chăm sóc thai sản: biết các nội dung chăm sóc thai ≥ 80% là 22,9%, biết 60% - 70% là 48,7%, biết ≤ 50% là 28,4%, biết kiến thức khám thai 97,2%, kiến thức tiêm phòng uốn ván 89,1%, kiến thức thiếu máu thiếu sắt 77%. Liên quan trình độ học vấn của bà mẹ với việc khám thai. Liên quan giữa mức hiểu biết của bà mẹ với việc khám thai. Liên quan khám thai với nơi sinh. Liên quan lao động của mẹ trong thời kỳ mang thai với tuổi thai khi sinh. Liên quan giữa tăng cân của mẹ trong thời kỳ mang thai với cân nặng trẻ khi sinh. Liên quan tăng huyết áp của mẹ trong thời kỳ mang thai với trở ngại khi sinh.Liên quan ra máu âm đạo trong thời kỳ mang thai với trở ngại khi sinh.

Một phần của tài liệu KỈ YẾU NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NGÀNH Y TẾ (Trang 150 - 153)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(202 trang)