Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG VĂN HOÁ QUAN HỌ BẮC NINH
2.1. Đề cao tình yêu thương giữa con người với con người
2.1.1. Tình cảm gia đình
“Gia đình” hai tiếng thiêng liêng luôn ghi sâu vào tâm khảm của mỗi con người Việt Nam. Gia đình là môi trường quan trọng để con người hình thành nuôi dưỡng, giáo dục nhân cách mỗi con người. Đối với mỗi cá nhân gia đình luôn là điều thiêng liêng, tuyệt vời nhất.
Nét đẹp lớn nhất mà ai cũng có thể nhận thấy, bắt nguồn từ thuở cha ông chảy mãi đến tận ngày nay, đó là mối quan hệ tình nghĩa trong gia đình:
“Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon” [81, tr.601].
Đây là nét đặc trưng, một nét đẹp văn hoá mà có lẽ chỉ có ở một dân tộc hình thành từ nền nông nghiệp lúa nước, lại phải trường kỳ chịu cảnh thiếu thốn, khó khăn, phải chống chọi với ngoại xâm, thiên tai, thú dữ mới hiểu được. Gia đình của người Việt có lối sống trọng tình, trọng nghĩa đặc biệt là tình nghĩa vợ chồng gắn bó keo sơn. Tình cảm gia đình của người Quan họ cũng được bắt nguồn từ mối quan hệ tình nghĩa trong gia đình người Việt:
“Đôi bên bác mẹ cũng già,
Lấy anh hay chữ để mà cậy trông” [30, tr.82].
Bên cạnh quan niệm về tình nghĩa, về thuỷ chung người Quan họ còn coi trọng chữ “Hiếu” và đạo “Hiếu”. Chữ “Hiếu” được người dân Kinh Bắc phản ánh một cách sâu sắc, giá trị nhân văn ấy là một chất liệu sống tốt đẹp, một giá trị cốt lõi của Đạo làm người mang tính giáo dục mỗi cá nhân trong gia đình. Chính từ nền tảng gia đình đã hình thành nên những nhân cách cao cả cho đất nước và xã hội.
Đối với mỗi người, gia đình có vai trò quan trọng. Gia đình là cái nôi hình thành nhân cách. Mỗi người khi sinh ra và lớn lên luôn được nuôi dưỡng và bao bọc bởi cha mẹ. Cha mẹ có công nuôi dưỡng mỗi người nhưng cha mẹ cũng đã tác động lên mỗi con người những ảnh hưởng từ thói quen ăn uống, sinh hoạt hàng ngày đến cách ứng xử văn hoá. Cha mẹ nào cũng mong muốn những thứ tốt đẹp nhất cho con và mong mỏi một điều duy nhất là con nên người.
Các liền anh, liền chị thăm hỏi các cụ nghệ nhân
Con người từ khi sinh ra luôn gắn bó, biết ơn đấng sinh thành nuôi dưỡng với tình cảm quý trọng. Chữ hiếu tạo nên một mối ràng buộc trong quan hệ cha mẹ và con cái. Con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng, lễ phép, vâng lời cha mẹ. Đối với người Quan họ, tình cảm gia đình, lòng hiếu kính với cha mẹ luôn được đề cao. Họ mong muốn được báo đáp ân tình cho cha mẹ, báo đáp đâu phải làm những việc to lớn, phi thường, mà nó được thể hiện ngay trong đời sống hàng ngày từ những việc nhỏ. Quà tặng lớn nhất đối với cha mẹ là lòng biết ơn, lòng kính yêu. Người Quan họ khi dựng vợ gả chồng cũng mong muốn lấy người có hiếu lễ, coi cha mẹ
vợ, chồng như cha mẹ mình, mong muốn được phụng dưỡng và chăm sóc khi cha mẹ về già:
“Đôi bên bác mẹ tương tề, Anh đi làm rể, em về làm dâu…
Em cũng muốn cho giếng ở gần ao
Để xem hai nước bên nào trong hơn” [30, tr.83].
Người Quan họ khi đã kết bạn với nhau thì coi nhau như anh em một nhà. Họ luôn quan tâm tới đời sống của nhau, giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, thăm viếng nhau lúc có ma chay, hiếu hỷ… Chẳng hạn như nhà của một thành viên trong bọn Quan họ có việc hỷ thì người Quan họ đến chúc mừng bạn mình, sau là chúc phúc cho đôi con trẻ nên duyên vợ chồng:
“Chúc mừng tổ ấm trong nhà, Mừng cho anh chị thật là đẹp đôi.
Bây giờ công việc xong rồi,
Chúc mừng hai họ ngồi chơi xơi giầu.
Đôi bên giao ước đã lâu,
Bây giờ được rể, được dâu rõ ràng” [30, tr.26].
Người Bắc Ninh vốn trọng chữ tình. Vì thế mà lễ nghĩa luôn được người Bắc Ninh coi trọng và đề cao. Đối với người Quan họ, lễ nghĩa là điều không thể thiếu, nó được thể hiện không chỉ trong lời ca mà còn thể hiện trong cách ứng xử của người Quan họ với nhau.
Người Quan họ coi trọng tình nghĩa được thể hiện qua lời mời Quan họ. Lời mời Quan họ luôn có trước có sau. Bởi trước khi đưa lời mời (nội dung chính của buổi gặp mặt) thì người mời đi mời luôn hỏi thăm, gửi lời chúc đến người lớn tuổi và là bề trên Quan họ:
“Chúng cháu có nhời chào cụ Nhì.
Lão không dám! Xin có nhời chào các liền anh! Thưa các liền anh, năm nay đã ca vui xuân canh nào chưa đấy?” [41, tr.156].
Qua lời mời ta thấy, người Quan họ luôn coi trọng, cung kính bề trên, coi trọng lễ nghĩa, phép tắc. Ngay trong việc mời giầu, người Quan họ kính mời bề trên:
“Chúng con têm giầu để chị em con đi hội Chắp hôm nay. Con mời thầy xơi một miếng giầu. Hôm qua mẹ con bên nhà cứ mắng mãi chị em con là vụng; mẹ con phải têm cho mấy miếng để chúng con học theo” [41, tr.181].
Việc này không chỉ có được cảm tình của đối tượng giao tiếp mà còn thể hiện phẩm chất của một người có phép tắc, đồng thời thể hiện lễ nghĩa và nền giáo dục tốt.
Lối sống trọn nghĩa vẹn tình của người Bắc Ninh còn được thể hiện qua cách tiếp đón bạn, mỗi khi khách đến chơi nhà:
“Khách đến chơi nhà,
Đốt than, quạt nước pha trà mời người xơi.
Chén trà này quý vậy đôi người ơi!
Mỗi người xơi một chén cho em vui lòng” [30, tr.45].
Sự thân thiện, mến khách ấy là kết quả của lối sống tình nghĩa bao đời của người Việt nói chung và người Quan họ nói riêng. Người Quan họ khi tiếp đãi bạn sang chơi đều chủ động mời bạn xơi “cơm Quan họ”. Người Quan họ mời bạn xơi cơm thì phải là mâm đan, bát đàn. Người đề cao nghĩa tình nên đã coi nhau như anh em một nhà thì chẳng hề chi tiếc đãi bạn, có đồ ngon, vật lạ đều mang ra đãi khách. Các món ăn trong “cơm Quan họ” tuỳ thuộc vào phong tục riêng của từng vùng. Song bắt buộc nơi nào cũng phải có: một đĩa thịt gà, hai đĩa giò lụa. Cuối bữa ăn luôn có “tiệc nước”, thường là những đặc sản của địa phương. Như ở làng Viêm xá “tiệc nước” bao giờ cũng có: chè đỗ đãi, bánh khúc, bánh rợm, ngoài ra là các thứ quả. Khi khách về, người Quan họ luôn níu kéo không muốn phải chia tay:
“Chuông vàng gác cửa tam quan,
Đêm nằm tưởng đến người ngoan em phiền.
Người về em vẫn khóc thầm, Đôi bên vạt áo ướt đầm như mưa.
Người về em vẫn trông theo,
Trông nước, nước chảy, trông bèo, bèo trôi.
Người về em dặn lời này,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua!” [30, tr.193].
Quan họ cứ nuối tiếc, bâng khuâng như vậy, quay đi rồi ngoảnh lại dặn dò nhau mãi chẳng muốn rời. Sự nuối tiếc lúc phải dã bạn không kìm nén được đã bật thành những tiếng khóc, những giọt nước mắt rơi ướt đôi vạt áo Quan họ luyến tiếc nhưng vẫn phải tạm biệt nhau ra về và hứa hẹn đến hẹn lại lên. Người Quan họ là vậy, trọng nghĩa vẹn tình để nhạc sĩ Trần Tiến khi về với quê hương Bắc Ninh đã viết lên bài hát “Ngẫu hứng giao duyên”: Người Bắc Ninh vốn trọng chữ tình. Người Bắc Ninh vốn trọng giao duyên. Khách đến nhà là hát, khách uống trà là ca. Khách đi xa giữ chẳng cho về… Bởi những ca từ mềm mại nhưng chan chứa tình cảm, tình nghĩa ấy mà làm cho người đến với Bắc Ninh chẳng muốn bước chân đi. Chính vì thế mà có câu:
“Em đi khắp bốn phương giời
Chẳng đâu lịch sự bằng người ở đây” [41.tr.156].
Có thể thấy rằng, người Bắc Ninh luôn coi trọng tình cảm gia đình.
Tình cảm gia đình không những được thể hiện trong mối quan hệ với cha mẹ, mà còn được thể hiện trong mối quan hệ giữa anh, chị, em trong gia đình, anh em giữa những làng kết chạ với nhau. Tục kết chạ và mối quan hệ anh em ấy được truyền từ đời này sang đời khác coi nhau như anh em ruột thịt một nhà.