Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG VĂN HOÁ QUAN HỌ BẮC NINH
2.2. Tình yêu lao động
Trong cuộc sống và xã hội mỗi con người đề có công việc và đều phải lao động tạo ra của cải vật chất để phục vụ cho nhu cầu tất yếu của
con người. Lao động giúp con người phát triển lành mạnh và tạo ra nhiều của cải vật chất, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc. Bởi vậy, mỗi người đều phải biết lao động, phải lao động và tham gia lao động phù hợp với khả năng của bản thân. Từ lao động mới nảy sinh ra sự sáng tạo để nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc cao hơn. Thông qua lao động, con người có được những của cải vật chất để phục vụ nhu cầu của mình, lao động vất vả họ càng biết trân trọng, yêu quý và giữ gìn những sản phẩm mà họ làm ra trong quá trình sản xuất vật chất. Qua hoạt động sản xuất vật chất con người trở nên khéo léo, thông minh, sáng tạo không ngừng để nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm lao động.
Quan họ khi đã kết bạn với nhau rồi, thì giữa họ có rất nhiều mối quan hệ và hoạt động giao lưu thường xuyên với nhau. Đó cũng chính là những hoạt động của văn hoá Quan họ. Quan họ thường xuyên quan tâm, chăm lo cho nhau trong cuộc sống, kể cả cuộc sống vật chất và tinh thần, thăm viếng nhau mỗi khi bản thân và gia đình mỗi thành viên bọn Quan họ bạn có việc vui, việc buồn và còn giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất.
Các cụ nghệ nhân Quan họ ngày này còn kể rất nhiều câu chuyện về việc các liền anh Quan họ mang cày, bừa, trâu sang cày bừa giúp Quan họ bạn. Còn các liền chị thì sang cấy giúp Quan họ bạn. Tất cả là để bạn cày, cấy kịp thời vụ và mong cho mùa màng bội thu, đồng thời cũng để bạn có thời gian tham gia “chơi Quan họ” vào dịp xuân sang mở hội.
Con người Bắc Ninh vốn cần cù, chịu thương chịu khó, đoàn kết, sáng tạo trong lao động sản xuất. Họ yêu lao động, hăng say tham gia sản xuất để tăng thu nhập cho gia đình, góp phần vào xây dựng và phát triển đất nước.
Điều đó được thể hiện rất rõ qua quá trình con người nơi đây chinh phục tự nhiên ngay từ những ngày đầu dựng nước. Văn hoá Quan họ cho thấy, ngay từ khi khởi đầu, khoa học kỹ thuật còn chưa phát triển, công cụ lao động còn
thô sơ con người hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên, cuộc sống của con người có ấm no, hạnh phúc hay không đều do tự nhiên đem lại. Vì vậy mà con người nơi đây rất coi trọng việc thờ cúng. Họ sùng bái các lực lượng tự nhiên như núi, sông, nước, lửa… và thờ các sức mạnh do âm dương phối hợp tạo nên sự sống, tạo ra con người, là các tín ngưỡng ở các làng Quan họ. Có thể nói rằng, các tín ngưỡng, nghi lễ thờ cúng thần thánh ở rất nhiều làng trên quê hương Quan họ được bắt nguồn từ đây. Hàng năm các tín ngưỡng phổ biến ở các làng Quan họ được diễn ra trong những ngày lễ hội làng để cầu cho cuộc sống mưa thuận gió hoà. Do đó, mà khi gặp khó khăn, con người luôn tìm đến sự nhiệm màu của tự nhiên:
“Cầu trời mưa thuận gió hoà, Cầu cho dân xã được mùa ấm no.
Dân làng lễ tạ Vua Bà,
Tạ ơn trời đất được mùa bội thu” [30, tr.272].
Đây là cảnh đền và ngày lễ hội ở thôn Viêm Xá vào ngày mùng 6 và mùng 7 tháng 2 âm lịch hàng năm. Nhân dân mở hội không chỉ ca chúc tụng nhau mà còn có mục đích đó là cầu cho mưa gió thuận hoà, cầu cho nhân dân trong làng được mùa màng tốt tươi, mong muốn cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
“Đền em thờ đức Vua Bà,
Linh thiêng tố hảo thật là vinh hoa.
Ngàn năm ơn đức Vua Bà,
Chiêu dân, lập ấp Vua Bà sinh ra.
Lại còn truyền xướng, truyền ca, Những năm hạn hán ắt là cầu mưa.
Cầu giời mưa thuận gió hoà,
Cầu cho dân xã được mùa ấm no” [32, tr.324].
Các liền anh, liền chị dâng hương tại đền Vua Bà
Câu lạc bộ nghệ thuật Kinh Bắc về thăm đền Vua Bà
Theo truyền thuyết về đức Vua Bà (truyền thuyết bà là con gái Vua Hùng Vương), khi trời giáng xuống bà ấp Viêm Trang, bấy giờ Viêm Trang thưa thớt, đồng ruộng bỏ hoang. Bà dựng vợ gả chồng cho mọi người, dạy nhân dân ca hát, thêu dệt, trồng dâu nuôi tằm,… lập nên Viêm Trang đông vui, trù phú. Đức Vua Bà được nhân dân yêu quý và coi Bà là “Nam Hải đại
vương”, nên những năm hạn hán người dân nơi đây tổ chức “Lễ hội cầu đảo”
tại đền Vua Bà. Truyền rằng, lễ cầu đảo rất ứng nghiệm và cứ hàng năm nhân dân mở hội để mong sự trở che, bao bọc của Vua Bà nhân dân lại có một năm mùa màng bội thu.
Trải qua những năm tháng lịch sử, bằng các hoạt động thực tiễn, con người dần tích luỹ được tri thức, sự hiểu biết về giới tự nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì lao động sản xuất của người dân đã cải thiện hoàn toàn. Nhân dân không không còn phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên nữa mà đã chủ động, tích cực tham gia lao động sản xuất và đặt được năng suất cao hơn, mang lại cuộc sống đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần cho người dân nơi đây:
“Tam Sơn ba núi sáu làng,
Chùa trên, chợ dưới bán hàng đông vui” [32, tr.363].
Từ đó con người đã chủ động trong việc lao động sản xuất, không còn bị động và phó mặc cuộc sống sướng khổ là do các thần thánh quyết định nữa.
Nhờ đó, con người dần khẳng định vai trò của mình trong lao động sản xuất và xây dựng làng xã thành những trung tâm kinh tế, văn hoá ngay từ thời xa xưa. Chính sự chủ động trong lao động, sản xuất của người dân nơi đây đã thúc đẩy thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển mạnh làm cho làng xã trong tỉnh không còn mang tính thuần nông. Do vậy, làng quê Bắc Ninh ngay từ thời phong kiến đã sầm uất, nhộn nhịp, sôi động với các hoạt động kinh tế đa dạng, làm giàu thêm đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân nơi đây.
Chính điều này đã tạo ra môi trường phát huy cá tính, phẩm chất của con người xứ Kinh Bắc.
Ngày nay, gần một thế kỷ đã qua, Bắc Ninh - đất Kinh Bắc thuở nào vẫn là một vùng đất trù phú tiềm ẩn những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và giữ gìn những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trên chặng đường hơn mười năm kể từ ngày tái thành lập tỉnh,
Bắc Ninh đã phát huy truyền thống cách mạng, năng động, sáng tạo để thực hiện công cuộc đổi mới, tạo nên những bước chuyển biến mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội. Bắc Ninh là một trong những tỉnh đứng đầu cả nước về các khu công nghiệp. Ngành tiểu thủ công nghiệp rất phát triển với nhiều làng nghề truyền thống và được ví là “vùng đất trăm nghề”, một số sản phẩm đã có thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước như đồ gỗ mỹ nghệ, đúc đồng… Hoạt động kinh tế đối ngoại cũng được mở rộng, góp phần quảng bá hình ảnh Bắc Ninh, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đứng thứ 7 trên toàn quốc. Trong nông nghiệp, nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tăng cả năng suất lẫn chất lượng sản phẩm. Chính sự chịu thương, chịu khó, linh hoạt, sáng tạo trong sản xuất và tình yêu lao động, biết trân trọng hoạt động sản xuất của người dân nơi đây đã làm thay đổi diện mạo tỉnh Bắc Ninh. Sự phát triển ấy không những làm giàu đời sống vật chất của người dân mà đời sống tinh thần của con người ngày càng nâng cao. Ngày nay, các câu lạc bộ Quan họ được thành lập nên rất nhiều không chỉ trên địa bàn tỉnh mà còn xuất hiện các câu lạc bộ Quan họ ở ngoài tỉnh và còn có các câu lạc bộ Quan họ của bà con đồng bào xa xứ yêu thích Quan họ. Họ không chỉ học hát mà còn đi sâu tìm hiểu văn hoá Quan họ. Điều đó cho thấy rằng, văn hoá Quan họ có ảnh hưởng sâu rộng đến con người Bắc Ninh nói riêng, người Việt Nam nói chung.