Tình yêu đôi lứa

Một phần của tài liệu Triết lý nhân sinh trong văn hoá quan họ bắc ninh (Trang 61 - 69)

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG VĂN HOÁ QUAN HỌ BẮC NINH

2.1. Đề cao tình yêu thương giữa con người với con người

2.1.2. Tình yêu đôi lứa

Bắc Ninh - một vùng đất địa linh nhân kiệt, đã tự bao đời nền văn hoá Quan họ đã trở thành nét đẹp tinh hoa chạm trổ lên mảnh đất, nếp nhà của

người dân xứ Kinh Bắc. Mảnh đất nơi đây là nơi chứa đựng bề dày của nền văn hoá dân tộc, đời sống tinh thần luôn vui tươi, sôi động.

Bắc Ninh mảnh đất chứa đựng một gia tài văn hoá nghệ thuật dân gian phong phú vào bậc nhất. Đã bao đời nay, cái gia tài vô giá ấy là cơ sở văn hoá, là trí tuệ và tài năng, là sức mạnh vật chất và là động lực phát triển của người dân xứ Kinh Bắc. Văn hoá Quan họ là một loại hình văn hoá nghệ thuật đặc biệt, ngoài phương tiện là giải trí còn chứa đựng ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục con người sống cho có nghĩa, có thuỷ, có chung, hiếu nghĩa vẹn toàn. Chính điều đó đã tạo nên triết lý nhân sinh sâu sắc trong việc giáo dục con người.

Ở bất cứ thời đại nào cũng vậy, con người sống với nhau cần có tình yêu thương làm cầu nối đưa bước. Người với người gắn bó với nhau để cùng nhau lao động và trong lao động tình yêu được nảy nở thắm thiết đặc biệt là tình yêu nam nữ.

Văn hoá Quan họ mang đậm triết lý giáo dục lòng chung thuỷ trong tình yêu. Chủ đề tình yêu là một trong những nội dung quan trọng của văn hoá Quan họ, đặc biệt đề tài tình yêu được coi là đề tài quan trọng nhất đối với dân ca Quan họ. Tiếng hát Quan họ là tiếng hát, lòng say mê của một tình yêu trong sáng, hồn nhiên, lành mạnh, chân thành và sôi nổi như đời sống lao động của người dân Bắc Ninh. Tiếng hát ấy đã ghi lại những chặng đường từ buổi ban đầu gặp gỡ, cho đến lúc gặp những khó khăn, thử thách và cùng nhau vượt qua khó khăn, gian lao thử thách ấy trong cuộc tình, từ khi trai gái yếu nhau đến lúc phải xa nhau. Tiếng hát Quan họ chứa đựng bao hoài bão, mơ ước, bao nhiêu khát vọng đều được phản ánh rõ ràng, chân thực qua lời ca Quan họ:

“Xa xôi xin chớ ngại ngùng,

Xa người, xa tiếng nhưng lòng không xa” [30, tr.43]

Các liền anh, liền chị hát giao duyên tại cổng đình làng

Khi tình yêu đó gặp nhiều gian nan, thử thách thì người Quan họ cũng dặn nhau cùng cố gắng vượt qua những gian khổ ấy để vươn tới tình yêu chân thành, khao khát được yêu và được lấy người mình yêu. Điều này cho thấy sự quyết tâm, không ngại gian khó, ý chí kiên định, quyết đấu tranh để giành tình yêu chân chính, đích thực:

“Yêu nhau bao núi cũng chèo,

Trăm sông cũng lội, nghìn đèo cũng qua” [30, tr.43].

Ngôn ngữ của người Quan họ sử dụng là ngôn ngữ giàu chất thi vị, được chắt lọc từ ca dao, tục ngữ, từ truyện nôm giàu tính hình tượng, giàu tính biểu cảm. Ngôn ngữ ấy cũng tiếp thu tinh hoa của thơ ca bác học… để rồi tạo nên sắc thái rất riêng của Quan họ, góp phần tạo nên những giá trị riêng cho văn hoá Quan họ và được thể hiện rõ nét trong lời ca Quan họ. Ngôn ngữ trau chuốt của thể thơ bốn chữ hoặc lục bát, cùng với nghệ thuật sử dụng vần, điệu công phu, những hình ảnh nên thơ, nên nhạc đã làm cho lời ca Quan họ đạt đến hoàn mỹ.

Nhưng chính sự mộc mạc của ngôn từ, qua cách đối đáp (phải không ngừng thay đổi nhịp) lại tạo nên một sức sống riêng làm xao xuyến lòng

người và đọng mãi dư âm của bài ca. Hình ảnh trau chuốt ấy là cái đẹp được lý tưởng hoá, còn ngôn từ mộc mạc là tiếng nói đích thực của trái tim.

Tiếng hát Quan họ có vai trò quan trọng trong đời sống thường ngày của người Quan họ, nó là phương tiện để người Quan họ giãi bày tâm sự và khúc mắc lòng mình. Trước hết, nội dung của lời ca Quan họ là mơ ước về tình yêu, khát khao hạnh phúc. Trái ngược hẳn với quan niệm kết hôn khắt khe của lễ giáo phong kiến trong ca từ Quan họ, tình yêu của trai thanh, gái lịch thật khoẻ khoắn đắm say. Họ đến với nhau bằng tấm lòng trân trọng, nhưng giàu tính hồn nhiên, thắm thía, nồng nàn:

“Cây trúc xinh, cây trúc mọc bờ ao, Chị Hai xinh, chị Hai đứng nơi nào cũng xinh.

Cây trúc xinh, cây trúc mọc bên đình, Chị Ba xinh, chị Ba đứng một mình cũng xinh.

Cây trúc xinh, cây trúc mọc bờ sông,

Người còn không hay đã có nơi nào, chối còn không.

Cây trúc xinh, cây trúc mọc bên chùa,

Người không yêu, em đi lấy đạo bùa phải yêu” [30, tr.86].

Câu kết của bài ca bộc lộ rõ một bản lĩnh xứng đôi với cấu trúc, cốt cách. Đó chính là bản lĩnh của người Quan họ khi yêu. Người Quan họ càng mơ ước hoà hợp, gắn bó, thuỷ chung bao nhiêu thì khi giã bạn càng quyến luyến, nuối tiếc, níu kéo lòng người lại bấy nhiêu. Chính tiếng nói, tiếng hát tha thiết ấy đã hứa hẹn trao gửi xe kết duyên, vì thế mà tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt rất riêng và độc đáo chỉ có ở người Quan họ mà ta khó có thể tìm thấy ở nơi khác.

Văn hoá Quan họ thể hiện tính bình đẳng rất cao. Đây là một trong những đặc điểm nổi bật và đặc sắc làm cho văn hoá Quan họ mang màu sắc riêng so với các loại hình văn hoá nghệ thuật khác. Sự bình đẳng được thể

ngay trong cách xưng hô của người Quan họ trong giao tiếp và trong ca hát.

Trong Quan họ, tất cả mọi người đều xưng là “em” hoặc “chúng em” và gọi bên bạn là “anh” hoặc “chị”. Cách xưng hô đó của người Quan họ thể hiện sự trân trọng, cung kính và đề cao bạn mình của người Quan họ. Người Quan họ bao giờ cũng khiêm nhường, ít nói về mình, chỉ khen đến bạn, họ luôn đề cao bạn mình, tự làm cho mình thấp khi nói về mình nhưng thực chất là đang so sánh ngang bằng nhau, tương đương như nhau:

“…Anh Hai ơi! Anh như hoa nở sân rồng, Đôi em như cành bích, cành hồng sánh đôi.

Anh Ba ơi! Anh Ba như sao Vượt giữa trời,

Đôi em như trấu xẩy dám chơi đọ nào…” [30, tr.82].

Hay:

“…Anh Hai như con một nhà giàu, Em như cành quế bên Tầu mới sang.

Anh Ba như lá ngọc cành vàng,

Em như trấu sẩy lọt sàng xuống nia…” [30, tr.83].

Tính bình đẳng trong văn hoá Quan họ được nâng cao hơn so với bình đẳng truyền thống, bởi trong Quan họ đã hình thành tính bình đẳng giữa nam và nữ, vấn đề bình đẳng giới mà cho tới ngày nay trên thế giới còn đang đấu tranh để thực hiện sự bình đẳng. Điều này cho thấy rằng, văn hoá Quan họ ngay từ thời phong kiến đã đấu tranh để đòi lại sự bất công trong xã hội, đòi lại quyền bình đẳng giới.

Tính bình đẳng này được thể hiện rõ nét nhất trong tình yêu nam nữ của người Quan họ. Theo quan niệm phong kiến, người phụ nữ không được phép bày tỏ tình yêu của mình, không có quyền ước hẹn mà phải an phận cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Và hệ quả của nó là việc kết hôn không có tình yêu, gia đình không hạnh phúc, cuộc sống cùng cực và muốn tìm cách giải phóng

mình nhưng cũng không dám thực hiện và thực hiện cũng đâu có dễ. Họ sợ những giáo lý hà khắc bởi xã hội mang nặng tư tưởng luân lý lễ giáo phong kiến mà đại diện là Nho giáo hết sức phi lý, “tam tòng, tứ đức” thắt chặt cuộc sống của con người đến tàn nhẫn. Nó chà đạp nên quyền sống, quyền tự do và những khát vọng chính đáng của con người. Con người muốn vùng lên để bảo vệ mình, bảo vệ tình yêu của họ nhưng cũng không dám thực hiện bởi họ còn nặng chữ “tình”:

“Lúc bé con mẹ con cha,

Đến khi cả nhớn xuất gia đi lấy chồng.

Lấy chồng chồng chả có yêu, Bác mẹ tham của bỏ liều thân con.

Bác mẹ ơi, bạn tình nhân kia ơi!

Gánh nước đổ đĩa cho con trẫm mình.

Bác mẹ ơi, bạn tình nhân kia ơi!

Trẫm mình vào vũng chân trâu,

Thà rằng cắt cổ cây rau má đề bó khô” [30, tr.165].

Nhưng trong Quan họ, không còn quan niệm người con gái ở thế bị động, an phận nữa mà người con gái luôn được tự do bày tỏ tình cảm của mình.

Khi chị Hai, chị Ba… Quan họ đã trót phải lòng anh Hai, anh Ba thì các chị đã chủ động cất tiếng hát nói lên nỗi lòng của mình, mạnh dạn bày tỏ tình cảm, nhớ nhung, chờ đợi và hơn nữa họ còn tự do hẹn ước với người mình yêu:

“Yêu nhau cởi áo cho nhau,

Về nhà mẹ cha có hỏi: Qua cầu gió bay.

Yêu nhau tháo nhẫn lồng tay,

Về nhà mẹ cha có hỏi, dối rằng: Qua cầu trót đánh rơi.

Yêu nhau gắn bó cùng nhau,

Càng ngày càng thêm nghĩa nặng, càng nhiều ân sâu” [30, tr.176].

Qua đây, có thể nói rằng, ở chế độ xã hội phong kiến thì tính bình đẳng trong Quan họ là mơ ước của mọi người dân. Điều đó đã trở thành động lực cho nhân dân đứng lên đấu tranh chống lại chế độ phong kiến bảo thủ, hà khắc, trọng nam khinh nữ để xây dựng một chế độ xã hội mới mang tính xã hội cao hơn. Quan họ mang ý nghĩa giáo dục và xây dựng tư tưởng bình đẳng cho mọi người và góp phần vào công cuộc chống lại tư tưởng trọng nam khinh nữ, sự bất bình đẳng giới trong xã hội.

Sự thuỷ chung, son sắt trong Quan họ còn được thể hiện qua mơ ước về hạnh phúc của đôi trai gái, quyết chờ đợi nhau:

“Mỗi người mỗi chốn mỗi nơi, Lại đây ta kết ở đời với nhau…

Con dao cầu người chỉ lên trên giời,

Chúng tôi vạch xuống đất thề nguyền lấy nhau” [30, tr.158].

Khi Quan họ yêu nhau, họ hẹn thề và mong ước đến được với nhau, quyết chờ nhau cho bằng được. Quan niệm của người Quan họ là sống với nhau bằng tình nghĩa thuỷ chung, quan tâm, chăm lo cho nhau cho trọn đạo phu thê.

Các liền anh, liền chị hát canh

Trong bài “Ngồi tựa song đào”: Ngôi rằng là ngôi tựa í ơ có mấy song ơ ới ơ ơ đào là ngồi tựa có ơ song đào ấy mấy đêm là đêm ơ ơ hôm qua… Đó là tâm trạng của người con gái nhớ về người tri kỷ, nỗi nhớ da diết đến cồn cào khiến cho cô không ngủ được, cứ bồn chồn ra vào, rồi lại ngồi tựa mình nhìn qua song cửa ngóng ra màn đêm. Để rồi sự nhớ thương ấy bùng lên, khao khát đến độ: Năm canh gió lạnh đêm trường. Nửa chăn, nửa chiếu, nửa giường để đó em còn đợi ai? Tình yêu trong Quan họ cứ vậy, cứ da diết, nhớ nhung, bồi hồi, quyến luyến, tạo ra cảm giác còn thiếu làm cho người chơi Quan họ cứ vấn vít, nhớ mãi khôn nguôi, không dứt ra được. Có lẽ vì thế mà làm cho nhiều người hiểu nhầm rằng: Quan họ yêu nhau chẳng lấy được nhau.

“lệ làng” cấm cản “lệ lòng” đành buông.

Thật vậy, chẳng còn gì buồn hơn khi yêu nhau mà không đến được với nhau? Nhưng chuyện yêu nhau không lấy được nhau trong Quan họ chỉ xảy ra ở những làng kết chạ với nhau. Kết chạ nghĩa là kết nghĩa anh em, khi hai làng đã kết chạ thì coi nhau như anh em một nhà cho nên không được lấy nhau. Vì vậy, mà những người yêu nhau không lấy được nhau đó đã giãi bày lòng mình qua những câu hát như rút từng ruột gan mình ra vậy. Ngay cả khi tục lệ mang tính chất ngăn cản thì họ vẫn đem vào câu hát giao duyên một cách tinh tế. Yêu nhau chẳng lấy được nhau thì biết trách ai đây? Có trách, thôi đành trách ông tơ hồng sao chẳng se duyên vậy! Nhưng yêu nhau không lấy được nhau người Quan họ không có những suy nghĩ tiêu cực mà họ vẫn lạc quan tìm hướng giải quyết cho việc không lấy được nhau rằng:

“Yêu nhau chẳng lấy được nhau, Đôi người về mượn thợ đánh dao,

Để đôi em về mượn thợ đánh kéo nạo đầu đi tu, Quyết hẳn là đi tu” [30, tr.116].

Ta cứ ngỡ kết cục thật buồn như chuyện tình Lan và Điệp, nhưng không phải vậy, người Quan họ có cách lý giải không tiêu cực mà rất riêng, rất dí dỏm: “Để em làm tiểu em vào tu chung”. Như vậy, không lấy được nhau nhưng họ vẫn có thể suốt đời ở bên nhau.

Đó là sự chung thuỷ, son sắt một lòng của người Quan họ. Sự trọn nghĩa vẹn tình đó là một trong những yếu tố giúp Quan họ trường tồn cùng thời gian và luôn được người đương thời yêu mến. Không chỉ vậy, tình yêu thuỷ chung, son sắt một lòng của người Quan họ còn mang tính giáo dục cho mọi người về một tình yêu trong sáng, hồn nhiên, được xuất phát từ trái tim, từ tình yêu chân thành.

Lặng nghe những câu ca Quan họ, ta cảm nhận được dân ca Quan họ thực chất là những bản nhạc trữ tình, những bản giao hưởng mang những cung bậc cảm xúc của tình yêu, những diễn biến phức tạp về tâm lý của con người trong tình yêu. Quan họ đã dám giãi bày lòng mình một cách công khai, bày tỏ mơ ước, nguyện vọng chính đáng của mình về một cuộc sống hạnh phúc của đôi trai gái. Qua đó, đã phá vỡ xiềng xích của luân lý lễ giáo phong kiến trói buộc con người. Đây như một bản cáo trạng, tố cáo chế độ phong kiến hà khắc với những luật lệ lễ giáo khắt khe chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm phá vỡ biết bao cuộc sống hạnh phúc của con người.

Vì vậy, văn hoá Quan họ Bắc Ninh không chỉ là một hình thức nghệ thuật dân gian mang tính chất giải trí mà nó còn mang ý nghĩa giáo dục lòng thuỷ chung, son sắt trong tình yêu cũng như trong cuộc sống của mỗi con người.

Chính điều này đã làm nên triết lý nhân sinh sâu sắc trong việc giáo dục đạo đức lối sống ở mỗi con người Bắc Ninh nói riêng và Việt Nam nói chung.

Một phần của tài liệu Triết lý nhân sinh trong văn hoá quan họ bắc ninh (Trang 61 - 69)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(113 trang)