Phần II. NHỮNG XÃ HỘI CỔ XƯA
Chương 4: Những dân tộc cổ xưa: Người Anasazi và những người hàng xóm
Những nông dân trên hoang mạc - Vòng tuổi thân cây - Chiến lược nông nghiệp - Những vấn đề của Chaco và bầy chuột rừng - Sự thống nhất trong vùng
- Suy thoái và kết cục của Chaco - Thông điệp từ Chaco.
Trong số những vùng có xã hội bị sụp đổ được đề cập trong cuốn sách này, vùng xa nhất là các đảo Pitcairn và Henderson đã được thảo luận trong chương vừa qua. Ngược lại, những vùng gần người dân Mỹ nhất là vùng Anasazi trong Công viên Văn hóa lịch sử Quốc gia Chaco (hình 9, 10) và Công viên Quốc gia Mesa Verde, nằm ở phía tây nam nước Mỹ, trên đường cao tốc số 57 của bang New Mexico và gần đường cao tốc số 666 của Mỹ, cách nơi tôi ở tại Los Angeles chưa đầy 966 kilômét. Cũng như những thành phố Maya mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong chương tiếp theo, những di tích này và những di tích cổ xưa khác của thổ dân Mỹ là những điểm du lịch mỗi năm thu hút hàng ngàn du khách từ những nước
350 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
phát triển. Một trong những nền văn hóa cổ xưa của khu vực tây nam là Mimbres được các nhà sưu tầm nghệ thuật ưa thích bởi những đồ gồm tinh xảo của nó được trang trí với những mẫu hoa văn và những hình minh họa đời sống thực: một truyền thống độc đáo của một xã hội với dân số chỉ khoảng 4.000 người và phát triển hưng thịnh chỉ trong vài thế hệ trước khi đột ngột biến mất.
Tôi thừa nhận rằng quy mô phát triển của các xã hội tây nam nước Mỹ nhỏ hơn nhiều so với những thành phố Maya, với dân số chỉ vài ngàn chứ không phải hàng triệu người. Do vậy, các thành phố Maya có diện tích rộng hơn nhiều, với những đền đài và nghệ thuật rực rỡ hơn, là sản phẩm của những xã hội được phân tầng sâu sắc hơn mà đứng đầu là những vị vua, và có chữ viết. Nhưng người Anasazi mới là chủ nhân của những công trình kiến trúc bằng đá lớn nhất và cao nhất ở Bắc Mỹ, cho tới khi những tòa nhà chọc trời bê tông cốt thép được xây dựng ở Chicago vào những năm 1880. Mặc dù người Anasazi không có chữ viết như người Maya để cho phép chúng ta xác định chính xác niên đại qua những dòng chữ,
351 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
nhưng chúng ta sẽ thấy rằng nhiều công trình kiến trúc ở tây nam nước Mỹ có thể được xác định niên đại chỉ trong vòng một năm, từ đó cho phép các nhà khảo cổ có những phân tích thời gian chính xác hơn để tìm hiểu lịch sử các xã hội so với các đảo Phục Sinh, Pitcairn và Henderson.
Ở tây nam nước Mỹ, chúng ta nghiên cứu không chỉ một nền văn hóa đơn độc và sự sụp đổ của nó, mà nghiên cứu cả một loạt các nền văn hóa (xem hình 7). Những nền văn hóa tây nam đã trải qua giai đoạn sụp đổ, tái tổ chức mạnh mẽ hay bị từ bỏ ở những khu vực và thời điểm khác nhau, trong đó có Mimbres vào khoảng năm 1130; Chaco Canyon, North Black Mesa và Virgin Anasazi trong khoảng giữa hoặc cuối thế kỷ XII; chừng khoảng năm 1300 thì tới Verde Mesa và Kayenta Anasazi; Mogollon khoảng năm 1400; và có thể tồn tại tới tận cuối thế kỷ XV như Hohokam, nổi tiếng bởi hệ thống thủy lợi nông nghiệp tinh xảo. Trong khi tất cả những chuyển biến mạnh mẽ này diễn ra trước khi Columbus đặt chân lên Tân Thế giới vào năm 1492, thì văn hóa Anasazi đã không biến mất hoàn toàn như những cư
352 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
dân của nó: những xã hội thổ dân khác ở tây nam sáp nhập các lớp hậu duệ của mình để tồn tại tới tận ngày nay; như người da đỏ Hopi và Zuni. Vậy điều gì khiến tất cả những xã hội lân cận suy thoái hay đột ngột thay đổi?
Những lý giải ưa thích một chiều cho rằng nguyên nhân là do tổn hại môi trường, hạn hán hay chiến tranh và tục ăn thịt người. Thực tế, nghiên cứu thời tiền sử ở tây nam nước Mỹ không thể sử dụng những lý giải một chiều. Đã có rất nhiều yếu tố xuất hiện nhưng tất cả đều dẫn tới một vấn đề chủ yếu rằng khu vực tây nam nước Mỹ là một môi trường dễ tổn hại và bất lợi đối với nông nghiệp – như phần lớn diện tích thế giới hiện nay. Vùng này có lượng mưa thấp, thất thường, đất chóng bạc màu cùng tỷ lệ tái sinh rừng thấp. Những vấn đề môi trường, đặc biệt là những đợt hạn hán lớn và những đoạn lòng sông, lòng suối bị xói mòn có khuynh hướng diễn ra liên tục với khoảng thời gian lâu hơn cả một đời người hay dài hơn cả khả năng ghi nhớ thông tin qua các câu chuyện kể. Mặc dù khó khăn như vậy, nhưng thật ấn tượng khi thổ dân Mỹ vùng tây nam đã phát triển
353 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
được những xã hội nông nghiệp tiên tiến tới vậy.
Minh chứng cho sự thành công của họ là hiện phần lớn khu vực này vẫn tự trồng trọt để cung cấp lương thực cho một dân số lớn hơn nhiều so với thời Anasazi. Tôi thật sự cảm động và không thể nào quên cảm giác khi tôi lái xe qua những vùng sa mạc rải rác di tích là những căn nhà bằng đá, những chiếc đập và hệ thống thủy lợi của người Anasazi trước đây, và thấy quang cảnh nơi đây rõ ràng bị bỏ hoang, thi thoảng mới có một căn nhà có người ở. Sự sụp đổ của người Anasazi và những xã hội khác ở phía tây nam đem lại cho chúng ta không chỉ một câu chuyện hấp dẫn mà cung cấp thêm tư liệu cho cuốn sách này, minh họa rõ hơn chủ đề về sự kết hợp giữa tác động của con người tới môi trường và hiện tượng thay đổi khí hậu, các vấn đề dân số và môi trường biến thành chiến tranh, những ưu điểm cũng như những nguy cơ của các xã hội tiên tiến, không tự cung tự cấp, phụ thuộc vào hàng hóa xuất, nhập khẩu và các xã hội bị sụp đổ ngay sau khi phát triển cực thịnh về dân số và quyền lực.
354 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
Chúng ta có thể tìm hiểu chi tiết về vùng tây nam nước Mỹ thời kỳ tiền sử là nhờ các nhà khảo cổ có hai lợi thế khi tiến hành khảo cổ khu vực này. Thứ nhất là phương pháp phân tích ổ chuột rừng mà tôi sẽ trình bày dưới đây, cho phép chúng ta xác định thời gian thực của các loài thực vật sinh trưởng trong phạm vi vài chục mét tính từ ổ chuột rừng trong khoảng thời gian vài thập kỷ kể từ thời điểm chuột làm tổ. Lợi thế này cho phép các nhà cổ thực vật học tái hiện những thay đổi của thảm thực vật bản địa. Lợi thế thứ hai cho phép các nhà khảo cổ xác định niên đại những công trình kiến trúc với thời gian sát nhất bằng cách tính những vòng tuổi thân cây trong các cây xà gỗ được sử dụng trong công trình, thay vì chỉ dựa trên phương pháp đồng vị phóng xạ mà các nhà khảo cổ ở những nơi khác sử dụng, với sai số không thể tránh được từ 50 tới 100 năm.
Phương pháp vòng tuổi thân cây phụ thuộc vào lượng mưa và nhiệt độ thực tế thay đổi theo mùa ở tây nam, bởi vậy tỷ lệ sinh trưởng của cây gỗ trong từng mùa cũng khác nhau, phương pháp này cũng
355 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
đúng với các khu vực khác trong các vùng ôn đới. Bởi tại những vùng ôn đới, mỗi năm cây lớn lên lại tạo ra một vòng tuổi, không giống như những cây rừng nhiệt đới sinh trưởng gần như liên tục. Nhưng tây nam là nơi rất thuận lợi để tiến hành nghiên cứu vòng tuổi thân cây so với phần lớn những vùng ôn đới khác, bởi khí hậu khô hanh ở đây giúp bảo quản rất tốt những cây xà gỗ bị chặt từ hơn một ngàn năm trước.
Các nhà khoa gọi phương pháp xác định niên đại theo vòng tuổi thân cây là dendrochronology (trong tiếng Hy Lạp dendron là cây, và chronos là thời gian) và cách tính như sau. Nếu hôm nay bạn chặt một cây gỗ, hoàn toàn có thể dễ dàng đếm số vòng tuổi thân cây bên trong, bắt đầu từ phía bên ngoài (tương ứng với vòng sinh trưởng của cây năm nay), và nếu đếm được 177 vòng tính từ vòng ngoài cùng vào đến giữa thân cây, thì vòng thứ 177 được hình thành vào năm 2005 trừ 177 bằng 1828. Nhưng tất nhiên xác định thời gian của một vòng tuổi thân cây cụ thể trong một cây xà gỗ của người Anasazi cổ đại khó hơn nhiều, bởi bạn không biết năm cây gỗ bị chặt là năm
356 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
nào. Tuy nhiên, độ rộng của mỗi vòng tuổi thân cây mỗi năm cũng khác nhau, tùy thuộc vào các điều kiện khí hậu của năm đó như mưa hay hạn hán. Bởi vậy, thứ tự những vòng tuổi thân cây trên một mặt cắt ngang giống như một bức điện Morse trước đây chúng ta từng sử dụng; chấm-chấm-gạch-chấm-gạch trong mật mã Morse, rộng-rộng-hẹp-rộng-hẹp trong thứ tự vòng tuổi trên thân gỗ. Thực tế, thứ tự của vòng tuổi thân cây đặc trưng hơn và giàu thông tin hơn mật mã Morse, bởi những cây gỗ thực tế gồm những vòng tuổi thân cây có độ rộng rất khác nhau, chứ không chỉ đơn thuần là dấu chấm hay gạch trong mật mã Morse.
Các chuyên gia vòng tuổi thân cây (gọi là dendrochronologist) bắt đầu bằng cách ghi lại thứ tự những vòng rộng và vòng hẹp trên một cây gỗ đã xác định thời điểm bị chặt trong một năm gần đây, và họ cũng ghi lại thứ tự vòng tuổi thân cây của những cây xà gỗ bị chặt trong những thời điểm không xác định trong quá khứ. Sau đó họ so sánh và liên kết thứ tự những vòng có cùng độ rộng/hẹp đặc trưng của những xà rầm khác nhau. Ví dụ, giả sử năm nay
357 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
(2005), bạn chặt một cây gỗ 400 năm tuổi (có 400 vòng) và thấy trên mặt gỗ có một thứ tự đặc biệt là năm vòng rộng, hai vòng hẹp và sáu vòng rộng tượng trưng cho 13 năm nằm trong khoảng vòng tuổi từ năm 1643 trở về năm 1631. Nếu bạn cũng tìm thấy thứ tự đặc biệt này bắt đầu từ năm thứ bảy, tính từ vòng ngoài cùng trong một cây xà gỗ không xác định được thời điểm bị chặt có 332 vòng tuổi, thì bạn có thể kết luận rằng cây xà gỗ cổ này được làm từ một cây bị chặt vào năm 1650 (bảy năm sau năm 1643), và cây này bắt đầu được trồng từ năm 1318 (cách thời điểm năm 1650 là 332 năm). Sau đó bạn có thể tiếp tục liên kết cây xà gỗ đó, từ những cây sống trong thời kỳ từ 1318 đến 1650, với những cây xà gỗ cổ hơn, và bạn lại thử so sánh các kiểu vòng tuổi thân cây để tìm ra một cây xà gỗ có kiểu vòng tuổi chứng tỏ nó được làm từ một cây gỗ bị chặt sau năm 1318 và được trồng trước năm 1318, từ đó mở rộng hồ sơ vòng tuổi thân cây di chuyển dần vào sâu hơn trong quá khứ. Bằng cách này, các chuyên gia vòng tuổi thân cây đã dựng được những hồ sơ vòng tuổi thân cây ở một số nơi trên thế giới lên tới hàng ngàn
358 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
năm. Mỗi hồ sơ này đều rất giá trị đối với một khu vực địa lý mà quy mô phụ thuộc vào hình thái thời tiết bản địa, bởi thời tiết và hình thái sinh trưởng của cây ở mỗi nơi là khác nhau. Ví dụ, bảng niên đại vòng tuổi thân cây cơ bản của khu vực tây nam nước Mỹ có thể áp dụng (với một số dao động) với khu vực từ bắc Mexico tới Wyoming.
Thêm một lợi ích khác của phương pháp vòng tuổi thân cây là độ rộng và cấu trúc của mỗi vòng tuổi thân cây phản ánh lượng mưa và thời gian mưa cụ thể của một năm. Bởi vậy, các nghiên cứu về vòng tuổi thân cây còn cho phép chúng ta tái hiện khí hậu trước đây; ví dụ như chuỗi những vòng rộng cho thấy khí hậu thời gian đó ẩm ướt, và chuỗi những vòng hẹp là khí hậu khô hạn. Bởi vậy, những vòng tuổi thân cây cung cấp cho các nhà khảo cổ khu vực tây nam thời gian chính xác và những thông tin chi tiết về môi trường hằng năm trong khu vực.
Những người đầu tiên đặt chân tới châu Mỹ sinh sống bằng săn bắn và hái lượm và di chuyển tới vùng tây nam nước Mỹ vào năm 11000 TrCN, nhưng có
359 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
thể còn sớm hơn như một phần quá trình thuộc địa hóa Tân Thế giới từ châu á của tổ tiên những thổ dân Mỹ hiện đại ngày nay. Nông nghiệp không phát triển tự nhiên ở tây nam nước Mỹ, do không có những loài sinh vật và động vật bản địa có thể thuần hóa. Thay vào đó, những loại hoa màu được du nhập từ Mexico, nơi con người trồng trọt ngô, bí, đậu và nhiều loại hoa màu khác. Ngô du nhập vào tây nam nước Mỹ vào năm 2000 TrCN, bí vào khoảng năm 800 TrCN, đậu thì muộn hơn và bông mãi tới năm 400 mới du nhập vào đây. Cư dân nơi đây còn nuôi cả gà tây, về điều này hiện vẫn đang còn tranh cãi liệu có phải gà tây được thuần hóa đầu tiên ở Mexico và sau đó được du nhập sang tây nam hay ngược lại, hoặc chúng được thuần hóa độc lập ở cả hai nơi. Ban đầu thổ dân Mỹ ở tây nam chỉ tiến hành một số hoạt động nông nghiệp như một phần trong cuộc sống săn bắn, hái lượm của họ, giống như cuộc sống của người Apache hiện đại trong thế kỷ XVIII và XIX. Vào mùa trồng trọt, người Apache định cư ở một chỗ để trồng trọt và thu hoạch hoa màu, sau đó lại sống cuộc sống du mục săn bắn và hái lượm trong suốt
360 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
thời gian còn lại trong năm. Vào năm 1, một số thổ dân Mỹ ở tây nam đã sống tập trung thành những ngôi làng và chủ yếu phụ thuộc vào hoạt động nông nghiệp và hệ thống kênh mương thủy lợi. Từ đó, dân số tăng mạnh và tản ra khắp vùng cho tới khi bắt đầu suy thoái vào khoảng năm 1117.
ít nhất đã xuất hiện ba hình thái sản xuất nông nghiệp, tất cả đều có những giải pháp khác nhau để đối phó với khó khăn chính của vùng tây nam, đó là:
làm thế nào để có đủ nước trồng trọt hoa màu trong một môi trường đa phần lượng mưa thấp và khó dự báo tới mức hiện nay chỉ duy trì được một số ít hoặc thậm chí chẳng có hoạt động nông nghiệp nào. Một trong ba giải pháp đó là tiến hành các hoạt động nông nghiệp trên những vùng đất khô, có nghĩa là chỉ trồng trọt ở những vùng đất trên cao và hoàn toàn dựa vào lượng mưa ở đó, nơi lượng mưa thực tế đủ để hoa màu sinh trưởng trên những cánh đồng có mưa. Giải pháp thứ hai không phụ thuộc trực tiếp vào lượng mưa trên cánh đồng, mà thay vào đó các cư dân chọn những vùng có mực nước ngầm sát mặt đất đủ để rễ cây có thể hút được. Phương pháp này
361 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
được áp dụng ở đáy những hẻm núi với những con suối thường xuyên hoặc thi thoảng mới có nước và mực nước ngầm bồi tích nông, như ở hẻm núi Chaco.
Phương pháp thứ ba đặc biệt được người Hohokam ưa chuộng và cũng được áp dụng ở hẻm núi Chaco, là dồn nước vào những kênh mương để tưới cho các cánh đồng.
Trong khi có nhiều phương pháp khác nhau được sử dụng ở tây nam để đảm bảo đủ nước tưới cho hoa màu, thì cư dân cũng áp dụng thử nghiệm các biện pháp này ở những địa điểm khác nhau với những chiến lược khác nhau để tìm ra biện pháp tối ưu. Quá trình thử nghiệm kéo dài tới gần một ngàn năm, và nhiều thử nghiệm đã thành công trong hàng thế kỷ, nhưng cuối cùng hầu hết đều thất bại vì những vấn đề môi trường do con người hoặc hiện tượng thay đổi khí hậu gây ra. Mỗi giải pháp cũng đều gây ra những nguy cơ môi trường khác nhau.
Một trong những chiến lược đó là sinh sống ở những vùng đất trên cao, nơi có lượng mưa cao hơn như người Mogollon sống ở vùng núi Verde Mesa, giống
362 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
như cư dân thời kỳ đầu phát triển nông nghiệp còn gọi là thời kỳ Pueblo I đã làm. Nhưng nguy cơ gắn liền với giải pháp này là khí hậu ở vùng cao lạnh hơn ở vùng thấp, và có những năm khí hậu lạnh tới mức ngay cả hoa màu cũng không phát triển được. Một biện pháp khác trái ngược hoàn toàn với biện pháp trên là trồng trọt ở những vùng đất dưới thấp, thời tiết ở đây ấm áp hơn nhưng lượng mưa lại không đủ cho hoa màu trên những vùng đất khô cằn. Người Hohokam đối phó với khó khăn này bằng cách xây dựng một hệ thống thủy lợi lớn nhất ở châu Mỹ, trừ Peru, với hàng trăm kilômét kênh mương thứ cấp là nhánh của một con kênh chính dài 19,312 kilômét, sâu 4,87 mét và rộng 24,38 mét. Nhưng hệ thống thủy lợi lại gây ra nguy cơ mỗi khi mưa bão, lượng nước mưa quá lớn dồn vào những kênh mương do con người tạo ra, xói mòn lòng mương khiến chúng sâu như những con sông nhỏ và mực nước trong kênh mương thấp hơn đồng ruộng nên cư dân không thể lấy nước tưới cho hoa màu bởi họ không có bơm.
Ngoài ra, những cơn mưa lớn hay lũ lụt còn có thể