Phần II. NHỮNG XÃ HỘI CỔ XƯA
Chương 5. Sự sụp đổ của nền văn minh Maya
Bí ẩn của những thành phố mất tích - Môi trường Maya - Nền nông nghiệp Maya - Lịch sử của Maya - Copán - Những phức tạp của sự sụp đổ - Chiến tranh và hạn hán - Sụp đổ ở vùng đất thấp phía nam - Thông điệp của Maya.
Tới giờ đã có hàng triệu du khách tới thăm những di tích của nền văn minh Maya cổ xưa bị sụp đổ từ hơn một ngàn năm trước ở bán đảo Yucantán, Mexico và những vùng Trung Mỹ lân cận. Tất cả chúng ta đều thích khám phá những bí ẩn lãng mạn, và Maya là một bí ẩn ở ngay bên cạnh chúng ta, gần gũi với người dân Mỹ như những di tích của người Anasazi.
Để tới thăm thành phố Maya cổ xưa, bạn chỉ cần lên một chuyến bay trực tiếp từ Mỹ tới thành phố Mérita, Mexico, nhảy lên một chiếc xe buýt hoặc thuê một chiếc xe và chỉ mất thêm một tiếng nữa đi trên một xa lộ rải nhựa (xem hình 8).
Ngày nay, nhiều di tích Maya với những đền thờ và lâu đài vĩ đại, vẫn nằm sâu trong rừng già và xa những khu dân cư hiện đại (Phụ bản 12). Nhưng
405 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
chúng từng một thời là nơi sản sinh ra nền văn minh thổ dân Mỹ hiện đại nhất Tân Thế giới, trước khi người châu âu tới đây, và là nền văn minh duy nhất có chữ viết tượng hình đã được các nhà khoa học giải mã. Làm thế nào mà những người cổ đại lại có thể xây dựng những xã hội đô thị ở những nơi ngày nay chỉ có vài nông dân sinh sống? Những thành phố Maya gây ấn tượng với chúng ta không chỉ bởi sự bí ẩn và vẻ đẹp của chúng, mà còn bởi chúng là những khu vực khảo cổ "thuần khiết". Có nghĩa là, vùng này ít người sinh sống, nên chúng không bị vùi dưới những tòa nhà xây dựng sau này như nhiều thành phố cổ khác, như thủ đô Aztec của vương quốc Tenochtitlán (hiện đang bị vùi sâu dưới thủ đô Mexico City hiện đại) và Rome.
Các thành phố Maya từng bị bỏ hoang, bị cây rừng che phủ và không hề được thế giới bên ngoài biết đến, mãi tới năm 1839 mới được một luật sư người Mỹ giàu có tên là John Stephens, cùng với nhà thiết kế người Anh Frederick Catherwood phát hiện ra.
Từng nghe đồn về những di tích trong rừng già, Stephens vận động Tổng thống Martin Van Buren bổ
406 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
nhiệm ông làm đại sứ tại Liên đoàn các nước cộng hòa Trung Mỹ, một tổ chức chính trị vô hình khi đó có phạm vi hoạt động trải dài từ Guatemala tới Nicaragua hiện nay, làm bình phong cho những chuyến thám hiểm khảo cổ của ông. Stephens và Catherwood đã thám hiểm 44 khu vực và thành phố.
Từ chất lượng lạ thường của những tòa nhà và nền nghệ thuật rực rỡ, hai người nhận ra rằng đây không phải là tác phẩm của những người man rợ (theo cách nói của họ) mà là của một nền văn minh tiên tiến đã bị diệt vong. Họ công nhận một số hình khắc trên những đền đài bằng đá là một kiểu chữ viết, và họ phỏng đoán chính xác rằng nó có liên quan tới những sự kiện lịch sử và những cái tên của con người. Trở về, Stephens đã viết hai cuốn sách hướng dẫn du lịch mô tả những di tích này, được Catherwood minh họa, và trở thành hai cuốn sách bán chạy vào bậc nhất.
Chỉ một vài trích dẫn từ những tác phẩm của Stephens cũng đem lại cảm giác bí ẩn cuốn hút của Maya: "Một thành phố đổ nát. Không một dấu tích con người xung quanh những di tích, với những
407 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
truyền thuyết truyền từ đời cha sang đời con và từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó nằm trước mặt chúng ta như một con thuyền mục nát nằm giữa đại dương, cột buồm đã gãy, tên thuyền đã mờ, tất cả thủy thủ đoàn đã bỏ mạng, chẳng còn một ai cho chúng ta biết nó từ đâu tới, chủ nhân của nó là ai, chuyến đi đã kéo dài bao nhiêu ngày và vì sao nó bị tàn phá... Kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tất cả những môn nghệ thuật gắn liền với cuộc sống đã nở rộ trong những cánh rừng già; các nhà hùng biện, những chiến binh và các chính khách, vẻ đẹp, tham vọng và chiến thắng đều đã từng sinh ra và biến mất ngay tại nơi đây và không ai biết rằng những điều này đã từng tồn tại, hay có thể nói về sự tồn tại của chúng trong quá khứ... Đây là những tàn tích của một dân tộc thông minh, tinh tế và lạ thường, những người đã trải qua tất cả những giai đoạn gắn với sự thịnh suy của các quốc gia; đạt tới cực thịnh rồi diệt vong... Chúng tôi leo lên những đền thờ hoang phế và những bệ thờ đổ nát của họ; đi bất cứ đâu chúng tôi cũng thấy hiển hiện những bằng chứng về thẩm mỹ và khả năng nghệ thuật của họ... Chúng tôi như đang
408 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
sống giữa những người kỳ lạ, những người có cái nhìn buồn bã từ trên các bức tường; chụp ảnh họ trong những bộ trang phục lạ mắt được trang điểm bằng những chiếc lông vũ; trèo lên quảng trường và những bậc thang dẫn tới các đền thờ... Trong không khí bí ẩn của lịch sử thế giới, chưa nơi nào khiến tôi ấn tượng bởi sự sinh động chứ không đơn thuần chỉ là lạ kỳ như thành phố vĩ đại và đáng yêu này, đảo lộn, tan hoang và biến mất,... bị cây rừng bao phủ trong phạm vi hàng kilômét, và thậm chí còn không có lấy một cái tên để gọi". Những cảm xúc này là những gì mà những du khách ngày nay khi tới thăm vùng đất Maya vẫn còn cảm nhận thấy, và đó là lý do tại sao chúng ta lại bị sự sụp đổ của Maya cuốn hút tới vậy.
Việc tìm hiểu nền văn minh Maya có một số thuận lợi với tất cả những ai quan tâm tìm hiểu những sự sụp đổ xã hội thời kỳ tiền sử. Đầu tiên, những văn bản của người Maya vẫn tồn tại, mặc dù chưa hoàn thiện, nhưng vẫn rất hữu ích cho việc tái hiện lịch sử Maya chi tiết hơn nhiều so với những gì chúng ta có thể tái hiện với đảo Phục Sinh, thậm chí với cả lịch sử
409 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
Anasazi thông qua những vòng tuổi thân cây và những ổ chuột rừng. Nghệ thuật và kiến trúc vĩ đại của các thành phố Maya thu hút rất nhiều nhà khảo cổ học nghiên cứu về Maya so với trường hợp nếu họ chỉ là những dân tộc chỉ biết săn bắn, hái lượm, không có chữ viết, sống trong những túp lều vô hình về mặt khảo cổ học. Các nhà khí hậu học và cổ sinh thái học gần đây thừa nhận một số dấu hiệu thay đổi khí hậu và môi trường thời xa xưa đã góp phần khiến nền văn minh Maya sụp đổ. Cuối cùng, hiện vẫn còn những người Maya sinh sống trên vùng đất quê hương cổ xưa của họ và nói những ngôn ngữ Maya.
Bởi mặc dù đã sụp đổ, nhưng phần lớn nền văn hóa cổ xưa của Maya vẫn còn tồn tại, nên những người châu âu đầu tiên đặt chân tới vùng đất này đã ghi lại được những thông tin về xã hội Maya thời đó, những thông tin này có vai trò quan trọng trong sự tìm hiểu của chúng ta về xã hội Maya cổ xưa. Mối liên hệ đầu tiên của Maya với người châu âu diễn ra vào năm 1502, 10 năm sau khi Christopher Columbus "khám phá" ra Tân Thế giới, khi trong chuyến thám hiểm thứ tư, cũng là chuyến đi cuối cùng, Columbus đã gặp
410 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
một chiếc thuyền của thổ dân ra trao đổi hàng hóa có thể là của người Maya. Năm 1527, người Tây Ban Nha bắt đầu xâm lược Maya, nhưng mãi tới năm 1697 họ mới khuất phục được vương quốc cuối cùng. Do vậy, người Tây Ban Nha đã có cơ hội quan sát những xã hội Maya độc lập trong khoảng thời gian gần hai thế kỷ. Điều đặc biệt quan trọng, có cả mặt tốt và mặt xấu, là giám mục Diego de Landa đã sống trên bán đảo Yucantán trong phần lớn thời gian từ năm 1549 đến 1578. Một mặt, trong nỗ lực nhằm triệt hạ "những kẻ ngoại đạo", ông đã đốt tất cả những nguyên cảo của người Maya mà ông có thể tìm thấy, đây bị coi là một trong những hành động phá hoại các công trình văn hóa tồi tệ nhất lịch sử thế giới; nên hiện chỉ còn sót lại bốn nguyên cảo của người Maya. Mặt khác, ông đã ghi lại một cách chi tiết về xã hội Maya, và ông cũng ghi lại lời giải thích vắn tắt về nội dung chữ viết của người Maya, sau gần bốn thế kỷ, những tài liệu này bỗng trở thành những đầu mối quan trọng để giải mã chữ viết của người Maya cổ xưa.
411 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
Thêm một lý do khác đáng để chúng ta dành cả một chương cho Maya là để xóa đi ấn tượng mà những chương khác của chúng ta gợi nên về các xã hội xa xưa, rằng họ chỉ là những xã hội nhỏ, mất cân đối, sống trong những môi trường có phần dễ bị tổn hại và biệt lập về mặt địa lý, lạc hậu so với công nghệ và nền văn hóa đương thời. Maya không thuộc số những xã hội này. Thay vào đó, xét về phương diện văn hóa thì nó là xã hội tiên tiến nhất (hoặc nằm trong số xã hội tiên tiến nhất) Tân Thế giới trước khi nhà thám hiểm Columbus đặt chân tới đây, và là xã hội duy nhất có chữ viết tượng hình, được bảo tồn tới tận ngày nay, đồng thời nằm trong một trong hai khu vực trung tâm của nền văn minh Tân Thế giới (Trung Mỹ-Mesoamerica). Mặc dù Maya có một số vấn đề môi trường gắn với địa hình đá vôi và lượng mưa không ổn định, nhưng nó không được coi là môi trường đặc biệt dễ bị tổn hại theo tiêu chuẩn thế giới, và chắc chắn không thể dễ tổn hại bằng môi trường đảo Phục Sinh, vùng Anasazi, Greenland hay Australia hiện đại. Để mọi người không bị nhầm lẫn khi cho rằng sụp đổ chỉ xảy ra với những xã hội
412 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
ngoại biên nhỏ, nằm trong các khu vực có môi trường dễ bị tổn hại, sự sụp đổ của nền văn minh Maya là lời cảnh báo với chúng ta rằng sụp đổ có thể giáng xuống cả những xã hội thông minh nhất, tiên tiến nhất.
Xét theo khung năm điểm của chúng ta để tìm hiểu vể những sự sụp đổ xã hội, thì Maya có tới bốn điểm gây ảnh hưởng tới sự sụp đổ của nó. Họ đã tàn phá môi trường của mình, nhất là phá rừng gây xói mòn.
Thay đổi khí hậu (hạn hán, có thể diễn ra theo chu kỳ) cũng góp phần khiến Maya sụp đổ. Tình trạng thù địch giữa chính những người Maya đóng một vai trò lớn hơn. Cuối cùng, các yếu tố chính trị/văn hóa cũng góp phần khiến xã hội Maya sụp đổ, đặc biệt là cạnh tranh giữa các vị vua và tầng lớp quý tộc đã dẫn tới tình trạng chỉ chú trọng gây chiến và xây dựng đền đài hơn là giải quyết các vấn đề quan trọng. Mục còn lại trong khung năm điểm của chúng ta là giao thương hay sự chấm dứt giao thương với các xã hội hữu nghị bên ngoài, rõ ràng không có vai trò quan trọng gì trong việc duy trì hay khiến xã hội Maya sụp đổ. Trong khi đá vỏ chai (loại nguyên liệu được
413 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
người Maya ưa thích dùng để chế tạo các công cụ bằng đá), ngọc bích, vàng và vỏ sò được nhập khẩu vào Maya, thì ba mặt hàng cuối là hàng xa xỉ nhưng không quan trọng. Còn các công cụ làm bằng đá vỏ chai vẫn được phân phối rộng rãi trong khu vực sinh sống của người Maya rất lâu sau khi hệ thống chính trị sụp đổ, chứng tỏ người Maya không bao giờ thiếu đá vỏ chai.
Để tìm hiểu về Maya, hãy bắt đầu từ môi trường của họ, mà chúng ta cho rằng đó là "rừng già" hay "rừng nhiệt đới". Sự thực thì không phải như vậy, và lý do vì sao có thể kết luận là không phải cũng là một điều quan trọng. Nói cho đúng, rừng nhiệt đới phát triển ở những vùng xích đạo có lượng mưa cao nên duy trì khí hậu ẩm ướt quanh năm. Nhưng vùng đất Maya trải dài hơn 1.500 kilômét từ xích đạo, trong vĩ độ từ 170 - 22 độ bắc, trong một môi trường gọi là "rừng nhiệt đới theo mùa". Có nghĩa là, mùa mưa của Maya diễn ra từ tháng Năm tới tháng Mười và mùa khô từ tháng Một tới tháng Tư. Nếu tập trung vào những tháng ẩm ướt, thì có thể gọi Maya là vùng "rừng nhiệt đới theo mùa", nếu tập trung vào những tháng
414 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
khô hanh, thì có thể gọi đó là vùng "hoang mạc theo mùa".
Từ phía bắc tới phía nam của bán đảo Yucantán, lượng mưa hằng năm dao động từ 45 - 254 xăngtimét, càng xuôi xuống phía nam đất càng dày hơn. Bởi vậy, bán đảo phía nam thuận lợi cho hoạt động nông nghiệp và có thể cung cấp đủ lương thực cho một số dân lớn. Nhưng lượng mưa hằng năm của Maya thay đổi khó lường; có những năm lượng mưa cao gấp ba, bốn lần năm khác. Tương tự, thời lượng mưa trong năm cũng thay đổi khó định trước, vì vậy có thể dễ dẫn tới tình trạng là nông dân trồng hoa màu khi dự đoán sẽ có mưa, nhưng rồi chẳng có mưa như dự kiến. Kết quả là nông dân hiện nay trồng ngô trên mảnh đất xưa của người Maya liên tục bị thất bát, nhất là ở phía bắc. Có thể người Maya xưa kia nhiều kinh nghiệm hơn và trồng trọt tốt hơn, nhưng dẫu sao họ cũng phải đối mặt với những vụ mùa thất bát do hạn hán và mưa bão.
415 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
Hình 8
Mặc dù khu vực phía nam có lượng mưa cao hơn phía bắc, nhưng có một nghịch lý là khó khăn về nước của vùng phía nam ẩm ướt lại nghiêm trọng hơn. Điều này không chỉ gây khó khăn cho cuộc sống của người Maya cổ ở phía nam, mà còn gây khó khăn cho các nhà khảo cổ học hiện đại bởi họ không hiểu tại sao những đợt hạn hán ngày xưa lại gây hậu quả lớn đối với phía nam ẩm ướt hơn là phía bắc khô hanh. Lý giải có vẻ phù hợp là có một trữ lượng nước
416 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
ngọt nằm dưới bán đảo Yucantán, nhưng độ cao của mặt đất lại tăng dần từ bắc tới nam, do vậy càng về phía nam thì mực nước ngầm càng sâu. Ở phía bắc bán đảo, mực nước ngầm đủ nông để người Maya cổ có thể lấy được nước khi đào những hào nước sâu gọi là cenote, hoặc từ những hang sâu. Chắc hẳn tất cả những du khách từng tới thăm thành phố Chichén Itzá của người Maya đều ấn tượng bởi những cenote vĩ đại ở đây. Trong những vùng đất thấp ở bờ biển phía bắc không có những hào nước, nhưng người Maya có thể chạm tới mực nước ngầm khi đào những chiếc giếng sâu tới 22,8 mét. Ở nhiều vùng của Belize, nước rất sẵn bởi có những con sông, hoặc ở những vùng dọc theo sông Usumacinta ở phía tây và xung quanh một số hồ ở khu vực Pentén ở phía nam. Nhưng đa phần những vùng đất phía nam quá cao so với mực nước ngầm để có thể đào hào hay đào giếng để lấy nước. Vấn đề càng trầm trọng hơn khi phần lớn địa hình bán đảo Yucantán là đá vôi, loại đá vôi xốp như bọt biển nên nước mưa thấm thẳng vào lòng đất, chỉ còn rất ít hoặc thậm chí không còn giữ được chút nước mặt nào.
417 | h t t p : / / w w w . t a i s a c h h a y . c o m
Vậy những khu vực dân cư đông đúc ở miền nam Maya đối phó với những khó khăn về nước như thế nào? Ban đầu chúng tôi sửng sốt khi thấy nhiều thành phố Maya không xây dựng cạnh những dòng sông ít ỏi mà lại được xây trên những doi đất nhô lên. Lý giải cho vấn đề này là người Maya đào những vùng đất trũng, hoặc cải tạo những vùng đất trũng tự nhiên, sau đó bít những chỗ rò rỉ trong đá vôi bằng cách trát một lớp vữa xuống lòng hố tạo thành những thùng hoặc bể chứa nước, có thể giữ nước mưa dẫn xuống từ những hồ chứa lớn hơn để dùng trong mùa khô. Ví dụ, những bể chứa tại thành phố Tikal của người Maya có thể trữ một lượng nước đủ để đáp ứng nhu cầu nước uống của khoảng 10.000 người trong thời gian 18 tháng. Tại thành phố Coba, những chiếc đập được xây quanh một chiếc hồ để nâng mức nước hồ và đảm bảo nguồn cấp nước ổn định hơn. Nhưng những cư dân Tikal và những thành phố khác phụ thuộc vào những bể chứa để lấy nước uống vẫn có thể lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng nếu gặp phải một đợt hạn hán kéo dài hơn 18 tháng. Một đợt hạn hán ngắn hơn làm nguồn