CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.3. Kinh nghiệm quản lý thu thuế doanh nghiệp của một số nước và bài học tham khảo đối với Việt Nam
Khảo sát kinh nghiệm của một số nước
Khảo sát kinh nghiệm một số nước phát triển như Australia, nước có điều kiện gần tương đồng với Việt Nam như Indonesia và nước có nền kinh tế chuyển đổi như Hungari với mục đích tìm hiểu những cải cách và hướng hoàn thiện quản lý thu thuế nói chung và quản lý thuế đối với DN nói riêng trên những nội dung chủ yếu sau:
* Đăng ký thuế:
Ở bất kỳ một quốc gia nào, DN tiến hành kinh doanh đều phải đăng ký thuế.
Đây là bước đầu tiên để cơ quan thuế quản lý được đối tượng nộp thuế (ĐTNT). Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều đưa hệ thống mã số ĐTNT áp dụng trong việc đăng ký thuế.
Đối với Indonesia, trong phạm vi 1 tháng kể từ khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đều phải đăng ký thuế tại cơ quan thuế cấp quận, huyện để được cấp mã số thuế. Tổng số đối tượng nộp thuế GTGT, TNDN là 2,8 triệu trong
44
đó có 812.782 doanh nghiệp. Việc đăng ký và cấp mã số thuế vẫn thực hiện theo phương pháp truyền thống (bằng giấy).
Đối với Hungari, năm 1996, thực hiện cấp mã số cho tất cả ĐTNT. Ngoài ra, cơ quan thuế phải phối hợp với các cơ quan khác để lấy các thông tin liên quan đến việc quản lý thu thuế như đăng ký về dân số, đăng ký về tổ chức có tư cách pháp nhân và không có tư cách pháp nhân, đăng ký về đất đai tài sản khác...
Đặc biệt đối với Australia, với phương châm coi đối tượng nộp thuế là khách hàng, cơ quan thuế đã đưa nhiều hình thức để giúp khách hàng của mình dễ dàng đăng ký thuế, như: việc đăng ký thuế của đối tượng nộp thuế thông qua Internet chiếm gần 25%, thông qua hệ thống điện tử tại các đại lý thuế là 38%, thông qua giấy tờ là 38%.
Cả nước có 3,7 triệu DN, trong đó có 2,2 triệu DN đăng ký nộp thuế hàng hoá và dịch vụ (tương tự thuế giá trị gia tăng-các doanh nghiệp có doanh thu từ 50.000$
/năm trở lên thì phải đăng ký nộp thuế hàng hoá và dịch vụ, những đối tượng có doanh thu dưới 50.000$/năm thì không thuộc đối tượng nộp thuế hàng hoá và dịch vụ mà chỉ nộp thuế thu nhập). Đối tượng này sau khi đăng ký được cấp mã số DN.
* Dịch vụ cho đối tượng nộp thuế
Ở các quốc gia bộ phận dịch vụ hỗ trợ ĐTNT được thành lập ở tất cả các cơ quan thuế để tăng cường trợ giúp cho đối tượng nộp thuế dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao và kịp thời cho ĐTNT, giúp DN thực hiện tốt nghĩa vụ thuế.
Đối với Indonesia, Tổng cục Thuế cam kết cung cấp các dịch vụ tuyệt hảo cho đối tượng nộp thuế để giúp họ hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình. Tổng cục Thuế đã xây dựng trang thông tin điện tử nhằm cung cấp thông tin nhanh cho đối tượng nộp thuế và công chúng, đồng thời có một bộ phận tư vấn điện tử đặt tại Jakata phục vụ trong phạm vi cả nước. Các hình thức dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế hết sức phong phú như: hỗ trợ trực tiếp, trả lời bàng công văn, hướng dẫn hoặc toạ đàm trên đài tiếng nói hoặc truyền hình, phát hành các ấn phẩm, tờ rơi. Đặc biệt có chế độ tờ khai thuế xanh (áp dụng cho ĐTNT chấp hành tốt nghĩa vụ thuế). Đối với những DN này sẽ được ưu đãi hoàn thuế nhanh trong vòng 1 tuần đối với thuế GTGT. Đồng thời, có điều lệ qui định rõ trách nhiệm của cán bộ thuế và ĐTNT trong trường hợp cán bộ thuế hướng dẫn hoặc tư vấn cho ĐTNT sai chính sách.
45
Đối với Hungari,các hình thức dịch vụ hỗ trợ ĐTNT gồm: dịch vụ trả lời qua điện thoại không mất tiền, Internet, phần mềm kiểm tra việc tính thuế trên Internet và bằng đĩa CD, giảng bài và tư vấn trực tiếp, sổ tay về thuế, phát hành tạp chí...
Đối với Australia, dịch vụ hỗ trợ ĐTNT rất phong phú và hiện đại: Ngoài những nội dung và hình thức nêu trên với chất lượng cao hơn, nội dung phong phú hơn, cơ quan thuế còn cung cấp hướng dẫn trọn gói cho ĐTNT cùng với tờ khai thuế.
Các ĐTNT được phân loại theo mức độ tuân thủ để từ đó có biện pháp đối xử và hình thức cung cấp dịch vụ phù hợp với từng loại ĐTNT:
Nhóm 1- đối tượng phản ứng hoặc trốn thuế
Nhóm 2- đối tượng chỉ nộp thuế khi cơ quan thuế ép buộc Nhóm 3- đối tượng không muốn nộp thuế nhưng vẫn nộp đúng Nhóm 4- đối tượng luôn mong muốn làm đúng
Theo sự phân loại nói trên, chiến lược cung cấp dịch vụ cho các đối tượng nộp thuế cũng rất khác nhau:
Nhóm 1: Không tuân thủ. "Gặp mặt một đối một bắt buộc tại các quầy dịch vụ".
Nhóm 2: Không muốn tuân thủ nhưng miễn cưỡng thực hiện. "Gặp mặt một đối một có hẹn ước".
Nhóm 3: Tuân thủ nhưng chưa hiểu rõ về pháp luật thuế. Chương trình giáo dục và thông tin "một với nhiều người".
Nhóm 4: Hoàn toàn tuân thủ: đối tượng nộp thuế tự phục vụ thông qua các dịch vụ thông tin được cơ quan thuế cung cấp dưới nhiều hình thức.
Hiện có 20 trung tâm cung cấp dịch vụ thông tin của cơ quan thuế đặt tại các thành phố lớn, nơi tập trung phần lớn đối tượng nộp thuế.
Trong năm 1999-2000 đã có khoảng 500.000 đối tượng nộp thuế đã tới trung tâm để được cung cấp dịch vụ; 529.678 cuộc gặp trực tiếp của cán bộ thuế với đối tượng nộp thuế trong đó có 93% được trả lời trong 15 phút; 10.000 thư điện tử; 2,4 triệu người sử dụng quyển hướng dẫn trọn gói cùng tờ khai; 1 triệu các ấn phẩm tham khảo; 600 cán bộ thuế được huy động vào thời kỳ cao điểm và 400 cán bộ thuế phục vụ đối tượng nộp thuế vào các thời gian còn lại trong năm.
* Thanh tra, kiểm tra:
46
Thanh tra, kiểm tra là chức năng cơ bản của cơ quan thuế và có vị trí quan trọng để đảm bảo thành công trong việc thực hiện quản lý thuế theo cơ chế TK-TN. Việc thực hiện thanh tra chủ yếu dựa trên kỹ thuật phân tích rủi ro.
Tại Indonesia, thanh tra được phân ra nhiều loại: thanh tra tại cơ quan thuế, thanh tra tại cơ sở. Theo thứ tự ưu tiên, thanh tra được sắp xếp theo thứ tự như sau:
Thanh tra thường xuyên, thanh tra chứng cứ ban đầu (được thực hiện để thu thập chứng cứ ban đầu chứng tỏ doanh nghiệp vi phạm luật hình sự), thanh tra tại cơ sở của doanh nghiệp, thanh tra đặc biệt (được thực hiện khi doanh nghiệp có sự bất thường).
Hệ thống tiêu chí để lựa chọn thanh tra trên cơ sở dữ liệu từ tờ khai thuế, báo cáo tài chính DN và các thông tin khác, sau đó được chấm điểm để lựa chọn. Việc thanh tra cũng có thể được mở rộng phạm vi và thời gian, đảm bảo nguyên tắc doanh nghiệp đã được thanh tra thuế sẽ không bao giờ bị thanh tra lại trong phạm vi một năm (trừ những trường hợp rất đặc biệt).
Từ năm 2002, thanh tra thuế được ưu tiên tập trung vào DN qui mô vừa trở lên.
Việc thanh tra các DN lớn phải được chấp thuận của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế.
Đối với Hungari, cơ quan thuế chia đối tượng nộp thuế thành 5 nhóm để có chiến lược và kế hoạch thanh tra, kiểm tra: đối với đối tượng nộp thuế lớn (doanh nghiệp lớn), việc kiểm tra được thực hiện một năm một lần. Việc thanh tra thuế được thực hiện 5 năm/lần. Cơ quan thuế có quyền thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế từ 5 năm trở về trước., kể cả kiểm tra bên thứ ba có liên quan.
Đối với Australia, dựa vào cách phân loại ĐTNT thành bốn nhóm như phần dịch vụ hỗ trợ ĐTNT đã nêu trên, cơ quan thuế đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp với từng loại đối tượng. Nhóm 1 và 2 là nhóm đối tượng cần tập trung kiểm tra nhiều nhất của cơ quan thuế. Đối với nhóm 1 cơ quan thuế tiến hành kiểm tra tất cả các thông tin đã kê khai. Đây là nhóm đối tượng cần chú ý nhất vì các trường hợp trốn thuế đều thuộc nhóm đối tượng này. Nội dung thanh, kiểm tra được gắn vào các Cục, Vụ và các Phòng, không tổ chức Cục thanh tra thuế ở Trung ương hay phòng thanh tra, kiểm tra tại các Chi nhánh một cách riêng biệt.
Ngoài ra trên thế giới hiện nay, có hơn 1/3 số quốc gia trong đó có Indonesia thực hiện giao quyền điều tra, khởi tố các vụ vi phạm pháp luật thuế cho cơ quan thuế.
Đối với Inddonesia, việc điều tra các hành vi vi phạm luật thuế để khởi tố hình sự chỉ
47
được thực hiện bởi các điều tra viên thuế. Điều tra viên thuế là những cán bộ thanh tra thuế giỏi được lựa chọn để đào tạo nghiệp vụ điều tra và được Bộ Tư pháp cấp giấy phép hoạt động điều tra viên. Điều tra thuế nhằm ngăn chặn tội phạm bỏ trốn ra nước ngoài, đưa ra toà xét xử các vụ án trốn thuế, tìm kiếm tịch thu các tài sản phạm tội, công bố rộng rãi trước công chúng về các thông tin liên quan đến việc phạm tội. Điều tra viên có quyền triệu tập các nghi can, người làm chứng và các chuyên gia, soạn thảo báo cáo điều tra, thực hiện các hoạt động khác được pháp luật cho phép. Hầu hết các vụ điều tra về thuế do cơ quan thuế đưa ra đều được xử lý.
Hệ thống chính sách phạt cũng như việc thực hiện phạt đối với đối tượng vi phạm được thực hiện nghiêm minh nhằm mục đích răn đe có hiệu quả. Đối tượng bị phạt không chỉ là các đối tượng nộp thuế vi phạm mà cả cán bộ thuế và bên thứ 3 vi phạm như cố tình không cung cấp thông tin cho cơ quan thuế, thậm chí bị tù kể cả trường hợp tiết lộ bí mất của đối tượng nộp thuế.
* Cơ chế tự khai-tự nộp thuế
Đối với Indonesia và Hunggari đều đã thực hiện cơ chế TK-TN đối với quản lý thu thuế doanh nghiệp (với các sắc thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp...) và cả các đối tượng khác như đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân. Bên cạnh cơ chế TK- TN, cơ chế cơ quan thuế tính thuế và ra thông báo thuế vẫn được áp dụng đối với các khoản phí, lệ phí và một số khoản thu khác.
Đối với Australia, năm1986, trước sức ép của Nghị viện yêu cầu cơ quan thuế Liên bang phải nâng cao hiệu quả của bộ máy, giảm chi phí quản lý, Tổng cục trưởng Tổng cục thuế đã quyết định thực hiện cơ chế TK-TN cùng với việc đưa công nghệ thông tin vào trợ giúp quản lý thuế với mục tiêu nhằm tăng thu, tăng sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế, giảm trường hợp khiếu nại về thuế, đảm bảo sử dụng tốt hơn nguồn lực của cơ quan thuế Liên bang. Quy trình này đầu tiên thực hiện đối với đối tượng nộp thuế lớn, như các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sau đó mở rộng dần phạm vi đối với các đối tượng nộp thuế là cá nhân. Cùng với việc áp dụng cơ chế này, việc chuyển đổi cán bộ cũng được thực hiện (1.745 cán bộ thuế đã phải chuyển đổi, sắp xếp lại). Hầu hết số cán bộ đó được chuyển đổi sang làm thanh tra hoặc dịch vụ cho đối tượng nộp thuế. Việc thực hiện cơ chế TK-TN đã đạt được các mục tiêu đề ra.
48
* Kê khai thuế qua mạng Internet
Tại Indonesia, tháng 7/2002, Tổng cục Thuế bắt đầu áp dụng kê khai thuế qua mạng. Điều này được xem như một bước cải thiện dịch vụ hỗ trợ cho đối tượng nộp thuế. Việc kê khai thuế qua mạng được áp dụng trước hết đối với tờ khai thuế GTGT của các DN trong tháng có từ 500 hoá đơn trở lên. Những DN trong tháng có dưới 500 hoá đơn vẫn áp dụng kê khai thuế theo phương pháp truyền thống (bằng giấy). Việc kê khai thuế qua mạng đã đem lại nhiều lợi ích cho cơ quan thuế và ĐTNT. Dịch vụ này đang được nghiên cứu hoàn thiện cơ chế chính sách về mặt pháp lý, cơ sở vật chất kỹ thuật để mở rộng về đối tượng và sắc thuế.
Tại Hunggari, các ĐTNT có thể "tải" mẫu tờ khai thuế trên mạng và thực hiện kê khai thuế. Chương trình sẽ tự động kiểm tra lỗi tờ khai và tự động báo lỗi để DN sửa lỗi, hoàn chỉnh tờ khai trước khi gửi cơ quan thuế. Hiện tại,có 3000 DN lớn thực hiện kê khai thuế qua mạng. Mọi dữ liệu trên tờ khai được tự động nhập vào cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế. Hiện tại việc áp dụng chữ ký điện tử chưa được phổ biến tại Hungary, trừ các tổ chức ngân hàng. Do vậy chưa có cơ quan riêng thực hiện việc giám định chữ ký điện tử. Để áp dụng kê khai thuế qua mạng, cơ quan thuế phải thực hiện cả chức năng đăng ký và giám định chữ ký điện tử.
Từ 1/1/2005, mọi đối tượng là DN có thể đăng ký thực hiện kê thuế qua mạng.
Mọi giao dịch giữa cơ quan thuế và các doanh nghiệp lớn đều được thực hiện bằng các phương tiện điện tử.
Tại Australia, dịch vụ kê khai thuế qua mạng được giới thiệu từ năm 1990 và trước hết được áp dụng cho các đại lý thuế, cho đến nay đã phát triển ở trình độ cao và phạm vi rộng. Đây là một chương trình được ưu tiên hàng đầu của cơ quan thuế Australia, và được mở rộng liên tục mỗi năm. Cho đến nay chương trình này đã cung cấp hơn 100 loại mẫu khác nhau như tờ khai hàng năm đối với DN, cá nhân, các quĩ lương hưu, đăng ký kinh doanh, báo cáo hoạt động...vv. Phần mềm trọn gói được "tải"
miễn phí từ trang thông tin điện tử của cơ quan thuế. Việc sử dụng chương trình này đã mang lại nhiều lợi ích cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế. Đối với cơ quan thuế: giảm được khối lượng lớn về giấy tờ và công việc nhập dữ liệu, tiết kiệm được nhân lực để bố trí cho các khâu quản lý khác, hơn nữa số liệu chính xác, kịp thời đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý. ĐTNT được phục vụ một cách thuận lợi hơn và tiết kiệm được thời gian, chi phí.
49
* Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế
Các nước nói trên đều ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế từ khâu đăng ký thuế (cấp mã số ĐTNT), xử lý tờ khai thuế, theo dõi thu nộp, xác định các tiêu chí đánh giá rủi ro, giúp cơ quan thuế lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra, đối chiếu thuế đầu vào, thuế đầu ra trong thanh tra, kiểm tra thuế giá trị gia tăng, dịch vụ điện tử cho các doanh nghiệp, lập báo cáo và cung cấp thông tin, trao đổi thông tin với các cơ quan có liên quan và phục vụ cho quản lý nội bộ ngành. Đặc biệt, đối với Australia, hệ thống công nghệ thông tin trong quản lý thuế rất hiện đại: hệ thống quản lý được nối mạng toàn quốc và có sự đối chiếu thông tin một cách tự động. Nếu là các công ty đa quốc gia thì phải có sự trao đổi thông tin với các nước có công ty mẹ hoặc công ty con ở nước đó. Các dữ liệu trên tờ khai thuế được nhập vào máy tính, đối chiếu thông tin sau đó được xử lý tự động hoàn toàn trên 4 dây chuyền. Có 77% tờ khai cập nhật và được xử lý tự động, còn 23% tờ khai phải bổ sung hoặc làm rõ một số thông tin. Máy tính có thể xử lý nhiều nội dung khác nhau, kể cả việc điều chỉnh các tờ khai của các đối tượng nộp thuế có hình thức kế toán khác nhau.
Một số nhận xét và bài học tham khảo có thể vận dụng ở Việt Nam
Thứ nhất là hầu hết các nước đã chuyển từ cơ chế cơ quan thuế tính thuế sang cơ chế TK-TN. Có thể nói cơ chế TK-TN là cơ chế quản lý thu thuế đối với DN phổ biến hiện nay trên thế giới.
Để tăng cường việc tuân thủ các luật thuế và tăng thu NSNN, trước sự phát triển nhanh chóng của ĐTNT cả về số lượng và sự phức tạp của các loại hình kinh doanh do tác động của toàn cầu hoá và những thành tựu của công nghệ thông tin, các nước trên thế giới đều hướng tới việc áp dụng cơ chế quản lý thuế hiện đại và có hiệu quả. Một hệ thống quản lý thuế hiện đại phải đảm bảo được nguyên tắc quản lý thuế cơ bản, đồng thời cũng là mục tiêu cao nhất của bất kỳ ngành thuế nào - đó là khuyến khích sự tuân thủ tự giác của ĐTNT. Tuân thủ tự giác đi liền với quản lý theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế.
Việc áp dụng cơ chế TK-TN là vấn đề nổi bật trong quản lý thuế vào những năm đầu thập kỷ 90, khi hầu hết các nước quyết định việc ban hành thuế GTGT phải đi liền với cơ chế quản lý TK-TN. Trong số 120 nước trên thế giới hiện nay đang áp dụng thuế GTGT, chỉ có 16 nước còn quản lý loại thuế này không theo cơ chế TK-TN