CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TẠI TP. HCM
3.3. Các biện pháp triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác thuế năm 2014
3.3.1. Giải pháp cụ thể mang tính địa phương
3.3.1.1. Quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế trên cơ sở thực hiện tốt chế độ cấp mã số thuế
Việc cấp mã số thuế sẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quan hệ mua bán, hợp đồng kinh tế, quản lý chặt chẽ việc sử dụng hoá đơn chứng từ, làm các thủ tục về hành chính kinh tế, xuất nhập khẩu. Mã số thuế không chỉ dùng cho cơ quan
85
thuế mà được thiết lập thống nhất theo địa phương hành chính, phân ngành kinh tế của Tổng cục Thống kê; được sử dụng thống nhất cho các ngành, các cấp, các cơ quan cấp phép hành nghề kinh doanh, do đó sẽ thuận lợi cho việc đối chiếu, cung cấp, sử dụng thông tin lẫn nhau và nhất là khi ứng dụng tin học trong công tác quản lý hành chính, thuế.
Để có thể quản lý tốt ĐTNT, trước hết các Chi Cục thuế tiến hành rà soát lại các đối tượng đã cấp mã số thuế nhưng không còn hoạt động kinh doanh để thông báo cho Cục thuế đóng mã số thuế. Thực hiện đối chiếu để hiệu chỉnh thống nhất thông tin về đối tượng như: địa chỉ, phương pháp tính, ngành nghề, giấy phép kinh doanh, vốn,...Đồng thời công khai hoá thủ tục đăng ký và quy trình cấp mã số thuế tại cơ quan thuế để ĐTNT biết. Cơ quan thuế phải có một hồ sơ đầy đủ về doanh nghiệp, cần nắm rõ các thông tin về đối tượng nộp thuế như doanh nghiệp lớn hay nhỏ, kinh doanh mặt hàng nào, có nộp thuế đúng hay không,... càng nhiều thông tin càng tốt. Những thông tin này không chỉ giúp cơ quan thuế quản lý tốt mà còn giúp cho các cơ quan chức năng khác kiểm tra nắm bắt khi cần thiết.
Tiến hành cấp mã số thuế cho tất cả các đối tượng nộp thuế thuộc diện quản lý thuế, thực hiện việc quản lý theo từng đối tượng nộp thuế, không lập sổ bộ phân chia theo từng sắc thuế mà lập bộ thuế theo từng mã số đối tượng nộp thuế; một đối tượng nộp thuế có thể nộp nhiều loại thuế khác nhau.
Xây dựng quy trình kết nối thông tin về ĐTNT với cơ quan Kho bạc thông qua mã số thuế để quản lý số thuế đã nộp vào NSNN. Nâng cấp hệ thống đăng ký cấp mã số thuế, từng bước thực hiện dịch vụ thông tin cho ĐTNT tìm hiểu chính sách chế độ nhằm tăng độ tin cậy giữa cơ quan thuế với ĐTNT.
Thực hiện phân cấp quản lý đối tượng nộp thuế theo hướng tập trung lên cục thuế quản lý các cơ sở kinh doanh thực hiện chế độ hoá đơn, kế toán và thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, các chi cục thuế chỉ quản lý hộ cá thể thu theo phương pháp trực tiếp hoặc chế độ thu thuế khoán. Phân quyền quản lý toàn diện, tránh sự chồng chéo trong công tác quản lý thuế gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
86
3.3.1.2. Quản lý tốt căn cứ tính thuế trên cơ sở hệ thống các định mức kinh tế - kỹ thuật và công tác kế toán lưu giữ sổ sách hoá đơn, chứng từ
Trong giai đoạn hiện nay, khi cơ chế tự tính - tự khai - tự nộp ngày càng được các nước áp dụng và đã đạt được nhiều thành tựu thì việc quản lý đối tượng tính thuế hết sức quan trọng, đòi hỏi cơ quan thuế phải phối kết hợp với các ban ngành để xây dựng hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật mới có thể cơ sở để đối chiếu so sánh với các hoạt động kinh doanh của các ĐTNT.
Mặt khác phải căn cứ sổ sách hoá đơn chưng từ của ĐTNT để xác đinh doanh thu tính thuế trong đó hoá đơn chứng từ là căn cứ pháp lý hết sức quan trọng để doanh nghiệp hạch toán kế toán, xác định đúng đắn về doanh thu, chi phí, lãi lỗ, tình hình biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp. Cơ sở pháp lý để công khai tài chính, thực hiện việc phân phối, ăn chia đối với các doanh nghiệp được thành lập dưới hình thức cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc các hoạt động liên doanh, liên kết... Đối với nhà nước là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp khai báo chính xác tình hình hoạt động kinh doanh, huy động vốn, kê khai nộp các khoản thuế theo luật định; là cơ sở để được xác định khấu trừ thuế, hoàn thuế.
Để quản lý được doanh thu và thuế thì trước mắt phải đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các hộ kinh doanh lớn bảo đảm 100% doanh nghiệp đều thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ kê khai nộp thuế theo quy định; đồng thời đưa công tác quản lý thu thuế vào nề nếp theo kết quả phản ánh trên sổ sách kế toán. Để đạt được mục tiêu trên, các Chi cục thuế cần kết hợp kiểm tra việc kê khai nộp thuế với kiểm tra thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, phát hiện và xử lý nghiêm những doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, những doanh nghiệp khai khống giá trị mua bán hàng hoá không lập hoá đơn hoặc lập nhưng ghi giá thấp hơn giá thực tế thanh toán nhằm trốn lậu thuế, đồng thời, khẩn trương kiểm tra báo cáo quyết toán thuế của các doanh nghiệp nộp ngay số thuế phát sinh vào ngân sách.
Mọi đơn vị kinh doanh có qui mô lớn và vừa phải bắt buộc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán hoá đơn, chứng từ để có căn cứ xác định đúng đắn doanh thu, thu nhập tính thuế. Trong hoá đơn có ghi mã số của đơn vị bán hàng, đơn vị mua hàng, và hoá đơn phải được lưu trữ đúng chế độ, thuận tiện cho việc kiểm tra, xác minh tài liệu, số liệu khi có vấn đề nghi vấn.
87
Đối với hộ khoán phải tiến hành kiểm tra, xác định lại doanh thu, mức thuế để ổn định cho phù hợp với mức độ tăng trưởng kinh tế và phát triển sản xuất kinh doanh Phát triển hệ thống quản lý ấn chỉ thuế trên mạng máy tính toàn ngành, phục vụ cho công tác kiểm tra chéo, phát hiện và xử lý các trường hợp sử dụng hoá đơn giả hoá đơn bất hợp pháp nhằm phục vụ tốt công tác kiểm tra sau hoàn thuế, tránh thất thoát NSNN.
Ngành thuế nên mạnh dạn khuyến khích các doanh nghiệp tự in hoá đơn và đăng ký với cơ quan thuế, việc quản lý, kiểm tra được dễ dàng hơn vì phạm vi kiểm tra, đối chiếu sẽ hẹp hơn so với phương pháp quản lý bằng cách do Bộ Tài chính, Tổng Cục thuế cấp phát. Riêng đối với các doanh nghiệp áp dụng theo phương pháp trực tiếp thì không nên sử dụng hoá đơn do Tổng Cục thuế phát hành dễ dẫn đến thực trạng mua bán, cho nhượng, làm giả như hiện nay, mà chủ yếu nên quản lý theo phương pháp bắt buộc doanh nghiệp tự in và đăng ký cơ quan thuế để quản lý.
Ngành thuế cần phối hợp với các ngành chức năng như Công an, Quản lý thị trường... phải tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát xử phạt nghiêm minh các trường hợp vi phạm, sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn, đồng thời nhà nước cần có chính sách mạnh mẽ khuyến khích, khen thưởng những tổ chức, cá nhân có công tố giác, phát hiện mua bán không xuất hoá đơn chứng từ (tiền trích thưởng từ tiền phạt);
“xã hội hoá” việc kiểm tra, kiểm soát thì khả năng thực thi mới có thể thực hiện được.
3.3.1.3. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế
Mục tiêu cơ bản của công tác này là tập trung chỉ đạo việc kiểm tra chấp hành đúng nội dung các luật thuế, đảm bảo thu đúng, thu đủ. Thông qua công tác thanh tra phát hiện những điểm còn hạn chế, vướng mắc, kiến nghị biện pháp xử lý, kịp thời sửa đổi, bổ sung chính sách chế độ nhằm hoàn thiện và phát huy tác dụng của hệ thống thuế. Về lâu dài cần coi trọng việc nâng cao chất lượng, đổi mới về chiều sâu công tác thanh tra bằng việc đầu tư, đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ thanh tra, đi đôi với việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác quản lý thu thuế. Chính sách thuế điều chỉnh theo hướng doanh nghiệp tự kê khai nộp thuế và tự kiểm tra chính mình, từ đó cơ quan thuế chủ yếu thực hiện chức năng giám sát, hướng dẫn đôn đốc thực hiện.
88
Ngành thuế cần phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan nhằm kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện chế độ kế toán, sử dụng hoá đơn chứng từ, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên toàn địa bàn.
Thực hiện kiểm tra, thanh tra thường xuyên theo một lịch trình cụ thể, đảm bảo có thể kiểm tra đến tất cả các đối tượng nộp thuế, tránh sự chồng chéo và kéo dài thời gian gây ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế.
Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm luật thuế, ngoài việc truy thu và phạt số tiền thuế nộp vào NSNN còn phải có tính chất giáo dục, răn đe để không còn tái phạm.
3.3.1.4. Công tác quản lý kê khai kế toán thuế và tin học
Biện pháp trọng tâm trong công tác kê khai kế toán thuế là việc tích hợp dữ liệu thông tin người nộp thuế, cụ thể như sau:
- Kiểm tra, rà soát số lượng cơ sở đăng ký kinh doanh, chống sót hộ, đảm bảo đưa vào diện quản lý thuế các cơ sở có thực tế kinh doanh; nắm chắc tình trạng hoạt động kinh doanh, thống kê chính xác, cập nhật kịp thời các biến động về nội dung đăng ký thay đổi của người nộp thuế.
- Tiếp tục triển khai mở rộng hệ thống nhận tờ khai qua mạng internet; xây dựng thêm một số công cụ hỗ trợ kê khai thuế qua mạng. Tổ chức tập huấn, tuyên truyền vận động người nộp thuế thực hiện việc kê khai thuế qua mạng.
+ Kiểm đếm mã số thuế; đối chiếu tờ khai thuế; hướng dẫn khai thác dữ liệu trên hệ thống QLT và PIT.
+ Xây dựng đề án triển khai dịch vụ nộp thuế qua POS bằng thẻ Ngân hàng.
+ Cục Thuế - Kho bạc Nhà nước - Ngân hàng thành lập nhóm bàn về các giải pháp khắc phục khi thực hiện các dịch vụ thu thuế trên và có chế độ họp định kỳ để thông báo và giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Coi trọng công tác kiểm tra, thanh tra nội bộ, kiểm tra việc thực hiện quy trình quản lý thuế,bảo đảm trong sạch bộ máy quản lý, nâng cao uy tín của ngành.
3.3.1.5. Xây dựng mô hình bộ máy theo chức năng
Tổ chức bộ máy quản lý hiện nay vẫn cồng kềnh, chồng chéo, còn mang tính chuyên quản khép kín chưa phù hợp với cơ chế tự tính tự khai tự nộp cần phải đổi mới cho phù hợp với việc phân cấp và cải tiến quy trình quản lý thuế, đáp ứng yêu cầu của tiến trình cải cách và phát triển của ngành thuế.
89
* Phòng cưỡng chế thu nợ: Quản lý số thuế nợ, theo dõi đôn đốc thu nợ, thực thi biện pháp đối với đối tượng dây dưa, nợ đọng thuế, thông báo, tính toán số tiền phạt, thực thi biện pháp cưỡng chế thu ban đầu đối với trường hợp nộp chậm thuế.
Thực hiện ở cấp địa phương về thu nợ thuế đọng và kiểm soát hiệu quả công việc.
Cần thiết phải xây dựng phòng này thật mạnh như một lực lượng cảnh sát thuế.
* Phòng thanh tra: chấp hành kế hoạch thanh tra toàn quốc, thực hiện công tác thanh tra, đánh giá công tác thanh tra các ĐTNT tại địa phương bao gồm cả việc miễn, giảm, hoàn thuế.
* Phòng Tuyên truyền, hỗ trợ tổ chức, cá nhân nộp thuế: là bộ phận cung cấp các thông tin về chính sách thuế cho ĐTNT, thực hiện các chương trình tập huấn chính sách thuế, thủ tục kê khai thuế cho các ĐTNT, trả lời các thắc mắc và giải đáp các câu hỏi của ĐTNT tại địa phương. Đây là phòng cần phải được mở rộng và tăng cường, nâng cao chất lượng phục vụ.
* Phòng xử lý tờ khai và kế toán thuế: Tiếp nhận và xử lý tờ khai của ĐTNT, quản lý đối tượng kê khai, đăng ký thuế, kế toán thu.
* Các phòng có chức năng nội bộ: chức năng chủ yếu của bộ phận này là:
quản lý ngân sách, tài chính, tài vụ, con người.
- Đối với cấp chi cục thuế cần làm rõ chức năng của các tổ, đội thuế, tập trung công tác xử lý thông tin tại tổ kế toán-vi tính, các đội thuế là lực lượng trực tiếp hành thu, đôn đốc các đối tượng nộp thuế nộp thuế vào kho bạc nhà nước. Vì vậy không nên phân biệt theo thành phần kinh tế, loại thu hay phương pháp tính thuế mà xác định nhiệm vụ đôn đốc ĐTNT quản lý trên địa bàn thực hiện đúng theo luật thuế. Như vậy tại văn phòng chi cục thuế không nên thành lập tổ kê khai mà đưa các đối tượng này về địa bàn đôn đốc thu.
3.3.1.6. Cải cách và áp dụng quy trình quản lý thuế mới
Đây là một cuộc cách mạng lớn trong nhận thức và hành động của cả ĐTNN và cơ quan quản lý Nhà nước về thuế; phải dược coi là nhiệm vụ trọng tâm của cải cách thuế lần thứ ba.
Cải cách thuế lần thứ ba đã có sự chuyển biến tương đối mạnh mẽ nhận thức về thuế. Theo luật Thuế doanh thu, luật Thuế lợi tức trước đây thì ĐTNT phải kê khai và
90
nộp thuế vào NSNN theo quy định. Cuối năm cơ quan Thuế thực hiện việc quyết toán thuế, xác định chính thức số thuế mà người nộp thuế phải nộp cho Nhà nước.
Cải cách thuế lần hai khẳng định một bước nhiệm vụ kê khai, tính thuế thuộc về trách nhiệm của ĐTNT, cơ quan Thuế sau khi nhận được tờ khai của ĐTNT thực hiện việc kiểm tra và ra thông báo thuế. ĐTNT căn cứ vào thông báo thuế chuyển tiền thuế nộp vào KBNN (chậm nhất không quá ngày 25 tháng sau).
Qua 6 năm thực hiện quy trình này bộc lộ nhiều tồn tại (như đã phân tích trong phần thực trạng) đòi hỏi cần có sự đổi mới và cải cách thực sự.
Xu hướng chuyển từ phương pháp ĐTNT tự tính tự khai và tự nộp thuế theo thông báo thành ĐTNT tự khai tự tính tự nộp, không chỉ khắc phục được hạn chế, nhược điểm quy trình quản lý thuế hiện hành mà nó còn phù hợp với thông lệ quốc tế về thuế.
Cải cách quản lý thuế là một việc làm hệ trọng, thành công thường bắt đầu bằng các dự án thí điểm (chúng ta đã làm trước khi ban hành luật thuế GTGT). Ưu điểm của nó là không đòi hỏi nhiều vật lực, tài lực và được thực hiện trong phạm vi một địa phương, cho nên có thể kiểm soát và hiệu chỉnh kịp thời trong quá trình triển khai dự án. Nhà chức trách có thẩm quyền có thể đúc rút kinh nghiệm trước khi triển khai diện rộng trên phạm vi quốc gia. Hiện nay dự án đang chọn làm thí điểm cấp Cục tại 5 Cục thuế: Quảng Ninh, Khánh Hòa, Bình Thuận, An Giang và Thừa Thiên Huế.
Yêu cầu cơ bản của hệ thống tự khai tự tính tự nộp thuế là:
+ Đối tượng nộp thuế phải có sự hiểu biết đầy đủ về nghĩa vụ thuế và trách nhiệm thuế của mình để cho phép họ có thể tính nghĩa vụ thuế riêng của mình. Họ phải tự điền vào tờ khai thực hiện nghĩa vụ thuế đảm bảo yêu cầu về thời gian. Các thông tin trên bảng tờ khai thông qua Kho bạc, Ngân hàng, cơ quan Thuế hoặc trang Web của thuế.
+ Các tờ khai thuế được nộp trực tiếp cho Kho bạc, Ngân hàng cùng với tiền nộp thuế, cán bộ thuế không thường xuyên can thiệp vào thủ tục này để kiểm tra rằng tờ khai là đúng. Như vậy, trách nhiệm TKTTN thuộc hoàn toàn về ĐTNT nộp vào ngân sách kịp thời không cần phải chờ thông báo thuế.
91
Điều kiện tiên quyết để có một hệ thống tự khai, tự tính, tự nộp thuế thành công:
+ Đối tượng nộp thuế phải hiểu nghĩa vụ thuế của mình: họ phải nhận được các thông tin rõ ràng chính xác mô tả về diện chịu thuế là gì, khi nào phải thực hiện nghĩa vụ thuế này, họ phải thực hiện yêu cầu gì. ĐTNT phải luôn được thông báo và nắm bắt kịp thời với những thay đổi trong chính sách thuế, có điều kiện dể dàng tiếp xúc với các chuyên gia của ngành thuế và được trả lời các câu hỏi khi họ cần.
+ Quy trình cần đơn giản: càng đơn giản càng tốt để họ dể hiểu và không nản lòng khi thực hiện các thủ tục này, việc hướng dẫn cách điền vào tờ khai phải được cung cấp miễn phí và sẵn có ở địa điểm thuận tiện như Ngân hàng, Kho bạc, trang Web; việc nộp tờ khai thuế dễ dàng không tiêu tốn thời gian và chi phí.
+ Đối tượng nộp thuế phải thấy rằng hệ thống xử phạt nghiêm minh đang được áp dụng: trường hợp không tuân thủ các yêu càu về thuế cần phải áp dụng các hình thức xử phạt nghiêm khắc để ngăn chặn kịp thời việc không tuân thủ. Nhưng đi đôi với nó cần thiết phải xây dựng quy trình khiếu nại nhằm bảo vệ quyền của ĐTNN, tránh tình trạng khi khiếu nại thất thiệt thuộc về họ.
+ Đối tượng nộp thuế cần phải tin rằng chương trình thanh tra thuế có hiệu quả hiện đang tồn tại: ĐTNT phải thấy được các trường hợp không tuân thủ, gian lận về thuế sẽ bị phát hiện và khi đó sẽ phải chịu các hình thức xử phạt thích đáng.
Tuy nhiên, để thực hiện phương thức tự khai - tự nộp thuế thì cần thiết và bắt buộc phải thực hiện các yêu cầu mang tính pháp lý đó là những quy định trong luật thuế GTGT và luật thuế TNDN hiện hành phải được Quốc hội sửa đổi trước khi ban hành quy trình TKTN hoặc có thể bằng các quy định của Chính phủ cho phép thực hiện cụ thể:
+ Sửa đổi điều 12 và 13 của Luật thuế GTGT, điều 11 và 12 của Luật thuế TNDN để cho phép các ĐTNT được lựa chọn và áp dụng các thủ tục TKTN thuế theo tờ khai của mình.
+ Bỏ tờ khai quyết toán thuế hàng năm.
+ Áp dụng một mức thuế suất thuế TNDN, khômg phân biệt chế độ ưu đãi đối với các thành phần kinh tế trong nước hay ngoài nước.