Nhân tố thuộc về sản xuất

Một phần của tài liệu Phân tích lợi thế so sánh hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU (Trang 29 - 34)

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỢI THẾ SO SÁNH

1.2. Nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế so sánh hàng nông sản xuất khẩu

1.2.1. Nhân tố thuộc về sản xuất

1.2.1.1. Chất lượng nguồn nhân lực

Theo bài viết của TS. Vũ Thị Mai thì “chất lƣợng nguồn nhân lực là mức độ đáp ứng về khả năng làm việc của người lao động với yêu cầu công việc của tổ chức và đảm bảo cho tổ chức thực hiện thắng lợi mực tiêu cũng như thỏa mãn cao nhất nhu cầu của ngươi lao động”. Hay chất lượng nguồn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nhân lực có thể đƣợc hiểu là:” trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành bên trong của nguồn nhân lực”.

Chất lượng nguồn nhân lực có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhƣng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt đƣợc sự phát triển nhƣ mong muốn.

Mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế thì nguồn lao động luôn luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển kinh tế. Theo nhà kinh tế người Anh, William Petty cho rằng lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải vật chất; C.Mác cho rằng con người là yếu tố số một của LLSX. Trong truyền thống Việt Nam xác định ''Hiền tài là nguyên khí của quốc gia". Nhà tương lai Mỹ Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động tri thức, theo ông ta "Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; Chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên" (Power Shift-Thăng trầm quyền lực- Avill Toffer).

Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lƣợng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác.

Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhƣng trong đó NNL đƣợc xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, NNL với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ƣu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dƣỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy đƣợc tác dụng khi kết hợp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

với NNL một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với tư cách là NNL, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Ngày nay một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi nhưng nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu hội đủ bốn điều kiện:

+ Một là, quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.

+ Hai là, quốc gia đó biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.

+ Ba là, quốc gia đó có đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo.

+ Bốn là, quốc gia đó có các nhà doanh nghiệp tài ba.

Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lƣợng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động đƣợc đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lƣợng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát huy chất lƣợng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lƣợng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm phát triển bền vững

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Thứ tƣ là, nguồn nhân lực chất lƣợng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn.

1.2.1.2. Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất

Thuật ngữ KH-CN thể hiện sự đồng hành gắn bó giữa lý luận, lý thuyết và thực tiễn, thực hành, giữa nghiên cứu và ứng dụng thực tế. Nhân loại đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghệ. Cuộc cách mạng KH-CN lần nhất (thế kỷ XVIII), bắt nguồn từ giai đoạn thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ giới, lần thứ hai (thế kỷ XIX) tiêu biểu là sản xuất điện năng và nền sản xuất đại cơ giới và lần thứ ba, động lực chính là KH-CN, hình thành từ giữa thế kỷ XX. Nội dung cơ bản của mỗi cuộc cách mạng là sự thay thế công cụ sản xuất thô sơ, thủ công, quá trình sản xuất lạc hậu, đơn biệt bằng áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, tiến dần lên cơ khí hoá, tự động hoá, sản xuất dây chuyền hiện đại với những nguồn năng lƣợng mới,...

đó là cải tiến, thay thế, sáng chế ra những hệ thống công cụ mới, trên cơ sở đó nâng cao năng suất lao động, tăng của cải cho xã hội.

KH-CN mang lại nhiều lợi ích đối với sự phát triển quốc gia, giúp đẩy nhanh CNH-HĐH, thay thế công nghệ cũ bằng công nghệ mới hiện đại, nâng cao năng suất lao động, hàng hóa, của cải vật chất tăng cao, đất nước ngày càng phát triển và có vị thế về kinh tế trong quá trình hội nhập. Ngoài ra, KH- CN giúp nâng cao chất lƣợng y tế, quốc phòng, an ninh,... về máy móc, phương tiện. Đời sống nhân dân từng bước cải thiện, quốc phòng an ninh ngày càng hiện đại. Tăng cường sức mạnh phòng thủ đất nước, hiện đại hóa máy móc, công nghệ trong các lĩnh vực nhƣ: văn hóa, giáo dục. Rút ngắn thời gian thực hiện ý tưởng, vòng đời các sản phẩm KH-CN, giải phóng người lao động khỏ trực tiếp, thay đổi các quan hệ xã hội, thể hiện hào khí dân tộc.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Ngày nay KH-CN trở thành LLSX trực tiếp, thúc đẩy tốc độ phát triển công nghiệp ngày càng nhanh nhƣ thế kỷ XVIII phải mất 100 năm, đầu thế kỷ XX khoảng 30 năm, vào thập niên 70 - 80 còn 20 năm, thập niên 90 chỉ còn trên dưới 10 năm. Vì vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 1990 so với 1982 tăng 28,5% - khối lượng thương mại thế giới tăng 57,9% (IMF 10/1990). Trong 5 năm đầu thế kỷ XXI, GDP của thế giới tăng 40,5%. Chu kỳ thay thế sản phẩm trước đây từ 15 - 20 năm, ngày nay chỉ còn 3 - 5 năm. Cho nên, quãng thời gian cần thiết để tăng gấp đôi GDP theo đầu người đã được rút ngắn một cách ổn định. Nếu nhƣ Anh mất 58 năm (từ 1780), Mỹ 47 năm (từ 1839), Nhật 34 năm (từ 1880) thì sau Đại chiến thế giới thứ hai, cuộc cách mạng KH-CN lần thứ ba còn đẩy tốc độ này lên nhanh hơn nhƣ: Braxin 18 năm,Indonesia 17 năm, Hàn Quốc 11 năm, Trung Quốc 10 năm. Trong vòng 20 năm (từ 1970 - 1990) sản xuất của cải trên thế giới đã tăng 2 lần, vƣợt khối lượng được sản xuất ra trong 230 năm trước (1740 - 1970).

KH-CN đóng vai trò to lớn trong nông nghiệp nhƣ: lai tạo, nhân giống cây trồng mới nhằm tăng năng suất và thay thế giống cây trồng ngoại nhập.

Các nhà khoa học đãtuyển chọn và đƣa vào sản xuất gần 170 giống lúa mới, trong đó có nhiều giống lúa chịu đƣợc phèn, chua, mặn, góp phần mở rộng diện tích trồng lúa, mang lại hiệu quả cao, nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có hàng chục loại giống lúa lai (Việt lai 20, 24, giống ngô lai), công nghệ chuyển đổi giới tính cá rô phi, cà mè vinh, lai tạo giống hoa mới,... Bên cạnh đó KH-CN đóng vai trò quan trong công nghiệp và xây dựng nhƣ: sản xuất xi măng, giếng khoan chủng loại G, chế tạo chất nổ ANFO chịu nước có sức công phá lớn, máy cắt plasma - khí ga, xây dựng trạm thu vệ tinh NOAA, ứng dụng công nghệ đúc đẩy, thi công cầu dây văng, đã tự chủ, sản xuất đƣợc nhiều loại thiết bị cơ khí chính xác, thiết bị siêu trường, siêu trọng,… xây dựng nhà cửa, nhiều công trình ngầm sâu, vƣợt xa,...

1.2.1.3. Công tác tổ chức quản lý sản xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm người để thực hiện những mục tiêu mà họ không thể đạt đƣợc với tƣ cách cá nhân riêng lẻ, thì công tác tổ chức quản lý đã trở thành yếu tố cần thiết để đảm bảo phối hợp các hoạt động của các cá nhân.

Ta biết rằng để tạo ra sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của đời sống và phát triển kinh tế, nhất thiết phải tiến hành phân công lao động và hợp tác sản xuất.

Sự xuất hiện của công tác tổ chức quản lý sản xuất nhƣ là kết quả tất nhiên của việc chuyển các quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành các quá trình lao động phải có sự phối hợp. Sản xuất và tiêu thụ mang tính tự cấp, tự túc do một cá nhân thực hiện không đòi hỏi quản lý. Ở một trình độ cao hơn, khi sản xuất và kinh doanh mang tính xã hội rõ nét và ngày càng sâu rộng hơn, khi đó công tác quản lý sản xuất là điều không thể thiếu.

Theo C.Mác, “Bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân. Sự chi phối đó phải làm chức năng chung, tức là chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa vận động chung của cơ chế sản xuất với sự vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ sở sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu tự điều khiển lấy mình nhƣng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.

Có thể nói công tác quản lý tổ chức sản xuất tốt suy cho cùng là do biết sử dụng có hiệu quả những cái đã có để tạo nên những cái chƣa có trong xã hội. Vì vậy, quản lý chính là yếu tố quyết định nhất cho sự phát triển của một quốc gia và các tổ chức trong đó.

Một phần của tài liệu Phân tích lợi thế so sánh hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU (Trang 29 - 34)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(111 trang)