Kinh nghiệm của một số nước

Một phần của tài liệu Phân tích lợi thế so sánh hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU (Trang 39 - 44)

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỢI THẾ SO SÁNH

1.3. Kinh nghiệm thực tiễn về phát huy lợi thế so sánh trong xuất khẩu hàng nông sản của một số nước và bài học cho Việt Nam

1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước

Vào thập kỷ 50, Thái Lan là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Tuy nhiên, nguồn lực sẵn có của Thái Lan trong giai đoạn trước khi công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu được đánh giá là rất có tiềm năng. Thái Lan là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

một đất nước có tiềm năng dồi dào về tài nguyên thiên nhiên và lao động. Do điều kiện đất đai trù phú, Thái Lan là một trong những nước có khả năng gieo trồng các loại cây nhiệt đới.

Vào năm 1970, Thái Lan được đánh giá là nước có sự giàu có và dồi dào về tài nguyên nông nghiệp, diện tích đất canh tác, lực lƣợng lao động, dung lượng thị trường và những ngành sản xuất cần nhiều lao động. Nhờ những tiềm năng sẵn có này, Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu có hàm lƣợng tài nguyên và lao động cao. Ba mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Thái Lan năm 1976 là gạo, bột sắn và ngô. Trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá năm 1980, xuất khẩu hàng hoá nông nghiệp chiếm 46,9%

tổng kim ngạch xuất khẩu, khai khoáng chiếm 11,6% và hàng chế tạo tập trung nhiều lao động nhƣ dệt may, giày da, chế biến hoa quả, đồ trang sức…

chiếm 32,3%. Bước sang thập kỷ 90, lợi thế so sánh về tài nguyên và lao động của Thái Lan đã giảm xuống tương đối. Thái Lan đứng trước các đối thủ mới xuất hiện có lợi thế so sánh về tài nguyên và lao động tốt hơn nhƣ Trung Quốc, Ấn Độ. Để thích ứng với tình hình mới, Thái Lan đã chuyển hướng đầu tƣ sang các ngành có hàm lƣợng vốn và công nghệ tốt hơn nhƣ máy tính, đồ điện gia dụng, linh kiện điện tử, máy móc… Còn đối với các mặt hàng xuất khẩu truyền thống, Thái Lan tập trung đầu tƣ đáng kể cho nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất, đầu tƣ về cơ sở hạ tầng để sản xuất hàng hoá tập trung, đầu tƣ vào khâu chế biến, bảo quản đồng bộ, đặc biệt là đầu tƣ vào thiết kế bao bì hấp dẫn người mua. Ngoài ra, Thái Lan còn ban hành quy định về chất lƣợng sản phẩm xuất khẩu.

Về cơ bản, lợi thế so sánh của Thái Lan vẫn tập trung chủ yếu ở những ngành công nghiệp sử dụng nhiều tài nguyên, nhƣng cũng đã có dấu hiệu chuyển dần sang các ngành có hàm lƣợng công nghệ cao hơn.

1.3.1.2. Phi-líp-pin

Là một đất nước có giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên bao gồm các sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

vật của ngành nông nghiệp và hải sản, du lịch và lực lƣợng lao động có khả năng nói tiếng Anh rất tốt, Phi-líp-pin có đầy đủ lợi thế để bắt tay vào công cuộc công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu bắt đầu từ thập kỷ 70. Vào năm 1970, Phi-líp-pin có lợi thế hơn hẳn các nước ASEAN khác (trừ Xinh-ga-po) trong các ngành sản xuất tập trung nhiều lao động.

Vào năm 1976, sản phẩm xuất khẩu chính của Phi-líp-pin là dầu dừa, đường và đồng. Nhờ tận dụng lực lượng lao động đông đảo, có trình độ kiến thức và ngoại ngữ khá trong khu vực, Phi-líp-pin cũng đã có những bước chuyển cơ bản về lợi thế so sánh để đáp ứng với tình hình mới. Trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá giai đoạn 1985 - 1998, hàng nông sản của Phi-líp-pin đã giảm từ 25,1% xuống 6,2%. Bù lại, ngành chế tạo và dịch vụ đã tăng lên nhanh chóng, từ 71,2% lên 80,6%. Nếu năm 1985, Phi-líp-pin có lợi thế so sánh hơn các nước đang phát triển và các nước trong khu vực trong các ngành tập trung nhiều tài nguyên. Thì trong thập kỷ 90, lợi thế so sánh của Phi-líp-pin đã chuyển dần sang những ngành có hàm lƣợng công nghệ cao hơn, trong khi những ngành tập trung nhiều tài nguyên có sự giảm mạnh về lợi thế so sánh.

Mặc dù trong chuỗi giá trị sản xuất hàng hoá điện tử ở khu vực Châu Á, Ma-lai-xi-a, Thái Lan và Xinh-ga-po là những nước xuất khẩu chủ yếu, nhưng Phi-líp-pin đã có những tiến bộ trong ngành điện tử, tạo ra những dây chuyền sản xuất hàng điện tử có giá trị gia tăng cao hơn so với các nước trên.

Phi-líp-pin cũng là quốc gia rất chú trọng đến giáo dục, đào tạo. Do có sự kết hợp giữa khả năng giáo dục cao và tay nghề tốt, Phi-líp-pin đã tạo ra một lực lƣợng lao động có chất lƣợng đứng thứ 4 Châu Á sau Nhật Bản, Hàn Quốc và Xinh-ga-po.

1.3.1.3. Ma-lai-xi-a

Giống nhƣ Thái Lan và Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a có nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có nhƣ thiếc, dầu khí, bô xít, mangan…Đất đai phì nhiêu là điều kiện rất tốt để phát triển các loại cây trồng nhƣ cao su, dầu cọ, cô ca,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

gỗ… Vì vậy, vào năm 1970 khi bắt đầu thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) và Kế hoạch triển vọng lần thứ nhất (OPP1), Ma-lai-xi-a đã tập trung thúc đẩy xuất khẩu các hàng hoá dựa vào nguồn tài nguyên khoáng sản, dầu khí, tài nguyên nông nghiệp. Cụ thể là trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu năm 1971, sản phẩm gỗ chiếm tới 19,2% kim ngạch xuất khẩu, hoá dầu chiếm 17,5%, lương thực thực phẩm chiếm 16,4%, hoá chất chiếm 15,1%. Các hàng hoá có thế mạnh nhất của Ma-lai-xi-a trong thời kỳ này là cao su, gỗ, dầu lửa.

Tuy nhiên, trong quá trình công nghiệp hoá, xuất khẩu hàng hoá dựa nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ đã giảm nhanh chóng, nhường chỗ cho những ngành công nghiệp chế tạo cần nhiều vốn và lao động có kỹ năng và trình độ công nghệ cao hơn.

Song song với việc tập trung phát triển các ngành có lợi thế về công nghệ, hiện nay Ma-lai-xi-a vẫn được đánh giá là nước có lợi thế so sánh cao nhất trong ASEAN về nguyên liệu nông nghiệp, nguyên liệu công nghiệp, máy móc điện. Với dân số hơn 29 triệu người, Ma-lai-xi-a đã tập trung phổ cập giáo dục, do vậy đã nâng cao được khả năng tay nghề và tri thức cho người dân.

Ma-lai-xi-a cũng được đánh giá là nước có nguồn nhân lực phát triển cao, đáp ứng hiệu quả cho chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.

1.3.1.4. In-đô-nê-xi-a

Trong khu vực ASEAN, In-đô-nê-xi-a là nước có nguồn lực tài nguyên giàu có vào dạng bậc nhất. Đất nước này hiện đang chiếm khoảng 60% rừng nhiệt đới của khu vực Châu Á và là khu vực có trữ lƣợng dầu mỏ lớn thứ 7 và trữ lƣợng khí đốt lớn thứ 2 trên thế giới. Ngoài ra, In-đô-nê-xi-a còn có trữ lƣợng thiếc đứng thứ hai khu vực ASEAN sau Ma-lai-xi-a. Do vậy, trong thời kỳ “Trật tự mới” (1965-1995), cùng với việc chuyển mạnh chiến lƣợc “thay thế nhập khẩu” sang chiến lược “hướng về xuất khẩu”, dầu mỏ được coi là nguồn lực chủ yếu để chính phủ In-đô-nê-xi-a phát triển kinh tế thị trường và là động lực để xây dựng các cơ sở công nghiệp chế biến khác. Cơ cấu sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

phẩm xuất khẩu của In-đô-nê-xi-a giai đoạn này phụ thuộc chủ yếu vào hai nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí đốt.

Bên cạnh đó, In-đô-nê-xi-a còn đƣợc đánh giá là có nguồn tài nguyên nông nghiệp giàu có. Với điều kiện đất đai màu mỡ, In-đô-nê-xi-a có thể phát triển mùa màng quanh năm, với các loại cây trồng chủ yếu nhƣ lúa gạo, cao su, dầu cọ, thuốc lá, hồ tiêu. Vì vậy, ngay từ thời thuộc địa, In-đô-nê-xi-a đã là trung tâm buôn bán nông sản và hương liệu sầm uất của khu vực.

Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá lấy công nghiệp dầu khí làm chủ lực (1969-1982), các nguồn lợi về tài nguyên nông nghiệp không đƣợc khai thác đầy đủ. Chỉ bắt đầu từ năm 1982, sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ thế giới, chiến lƣợc công nghiệp hoá phụ thuộc vào dầu mỏ mới đƣợc thay thế bằng chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu dựa trên sự khai thác các nguồn lợi tài nguyên khác.

Để tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng hoá phi dầu mỏ, chính phủ In-đô- nê-xi-a đã tiến hành tháo bỏ các hàng rào thuế quan, cho phép nhập khẩu hàng hoá và thu hút FDI để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, phá giá tiền tệ và duy trì tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Bên cạnh đó, chính phủ cũng tăng cường đầu tƣ nghiên cứu R&D, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tích cực thông qua FDI để tiếp nhận công nghệ tiên tiến. Trong kế hoạch phát triển kinh tế lần thứ 4 (1984 - 1989), chính sách công nghiệp của In-đô-nê-xi-a tập trung chủ yếu vào sản xuất hàng hoá trung gian, nguyên liệu công nghiệp, thiết bị và thành phẩm công nghiệp và hình thành công nghiệp chế biến dựa vào nguồn tài nguyên nông nghiệp. Đến kế hoạch phát triển kinh tế lần thứ 5 (1989 - 1994), cơ cấu công nghiệp của In-đô-nê-xi-a chủ yếu hướng về phát triển các ngành công nghiệp cơ khí và điện tử, công nghiệp chế tạo, công nghệ thông tin. Các ngành công nghiệp của In-đô-nê-xi-a đã bước sang một giai đoạn phát triển cao hơn, chuyển dịch từ các ngành công nghiệp lạc hậu sử dụng nhiều lao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN http://www.lrc-tnu.edu.vn/

động sang các ngành công nghiệp công nghệ cao, sử dụng nhiều vốn đầu tƣ.

Sự phát triển công nghệ ở In-đô-nê-xi-a là do có sự đầu tƣ, hỗ trợ rất lớn từ phía chính phủ. Có thể kể đến là "cách mạng công nghiệp" (thập kỷ 80) nhằm phát triển ngành công nghiệp chế tạo và hiện đại hoá ngành dầu khí, và

"cách mạng thông tin" (thập kỷ 90) nhằm tạo nên bước nhảy vọt mới của ngành công nghiệp (Trần Thị Lan Hương, 2005).

Một phần của tài liệu Phân tích lợi thế so sánh hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU (Trang 39 - 44)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(111 trang)