CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI
1.2. Cuộc đời, con người Cao Bá Quát - tiền đề của thơ tha hương
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn rực rỡ nhất của nền văn học dân tộc trong suốt thời kỳ phong kiến. Vì sự phát triển rực rỡ của nó mà nhiều nhà nghiên cứu đã mệnh danh cho giai đoạn này là giai đoạn văn học cổ điển Việt Nam. Tạm hiểu vì nó là một di sản văn học thuộc về quá khứ, có giá trị ưu tú và đã được thử thách, được khẳng định qua thời gian. Cao Bá Quát là một tác giả lớn, góp phần làm nên giai đoạn văn học cổ điển Việt Nam.
Thời đại có những ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc đời, con người Cao Bá Quát.
Bối cảnh lịch sử - xã hội, tư tưởng văn hóa đáng chú ý: đây là giai đoạn khủng hoảng, suy vong trầm trọng của chế độ phong kiến Việt Nam là sự phá sản nghiêm trọng của ý thức hệ phong kiến và sự trỗi dậy của tư tưởng nhân văn của thời đại.
Thứ nhất là sự khủng hoảng, suy vong của chế độ phong kiến được bộc lộ trên nhiều phương diện nhưng nổi bật là sự suy thoái của thể chế xã hội.Thêm vào đó, bão táp của phong trào nông dân khởi nghĩa càng làm cho chế độ phong kiến càng rệu rã. Có thể nói đây là thời kỳ đấu tranh liên tục, mạnh mẽ, rộng khắp của quần chúng mà chủ yếu là nông dân. Tính chất mạnh mẽ thể hiện ở chỗ có những cuộc khởi nghĩa tập trung hàng vạn người, kéo dài hàng chục năm như
cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (1741- 1751), cuộc khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương (1740 -1750), cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất (1736- 1769). Tính chất rộng khắp thể hiện ở chỗ các cuộc khởi nghĩa nổ ra ở nhiều nơi trên mọi miền miền đất nước. Đỉnh cao của phong trào khởi nghĩa lúc này là khởi nghĩa Tây Sơn.Ngọn cờ đào của người anh hùng áo vải Nguyện Huệ đã cùng một lúc quét thù trong (lật đổ hai tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài và nhà Nguyễn ở Đàng Trong), diệt giặc ngoài (đánh tan quân xâm lược Thanh ở phía Bắc, quân Xiêm ở phía Nam), giành độc lập dân tộc, thu giang sơn về một mối.Sau sự tồn tại ngắn ngủi của nhà Tây Sơn, Triều Nguyễn được thiết lập. Triều Nguyễn là một tân triều nhưng triều Nguyễn không đại diện cho cái mới.Bên cạnh một số đóng góp tích cực với dân tộc, về cơ bản triều Nguyễn
“công ít, tội nhiều” khi để đất nước mất vào tay thực dân Pháp.Điều đáng lưu ý là dưới triều Nguyễn, các cuộc khởi nghĩa nông dân vẫn nổ ra mà cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát là một trong số đó.
Thứ hai là sự phá sản nghiêm trọng của ý thức hệ phong kiến và sự trỗi dậy của tư tưởng nhân văn của thời đại. Giai cấp phong kiến Việt Nam vốn lấy Nho giáo làm ý thức hệ chính thống, dựa vào Nho giáo để thống trị nhân dân. Nhưng đến thời kỳ này chế độ phong kiến đã bước vào thời kỳ suy vong, khủng hoảng thì Nho giáo, bị lung lay dữ dội. Sự sụp đổ trong ý thức hệ Nho giáo có ảnh hưởng đến tầng lớp nho sĩ là lực lượng sáng tác của văn học thời đại. Sống trong thời đại Nho giáo bị sụp đổ như vậy, một tầng lớp nhà nho chân chính bị khủng hoảng về mặt lý tưởng. Họ không tìm ra con đường đi, họ hoang mang trước thời cuộc. Một số nhà nho bị bế tắc thực sự, Nguyễn Du đã từng thốt lên:
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên Xuân lan thu cúc thành hư sự
Hạ thử, đông hàn đoạt thiếu niên
Tráng sĩ đầu bạc ngẩng nhìn trời, lòng bi đát
Hùng tâm sinh kế cả hai đều mờ mịt Xuân lan thu cúc đã thành chuyện hão
Đông rét hè nóng cướp cả tuổi xuân (Tạp thi k ỳ 1)
Họ mất niềm tin vào chính mình, vào minh chúa. Số đông đã lui về ở ẩn, hoặc đang làm quan lui về ở ẩn để giữ gìn khí tiết, nhân cách của mình. Những biểu hiện của tư tưởng nhân văn trong văn học là sự lên án, tố cáo hiện thực cuộc sống đương thời chà đạp lên quyền sống của con người đấu tranh đòi quyền sống ý thức về cá nhân, giải phóng tình cảm, bản năng, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người, đồng tình, xót thương, thông cảm đối với các nạn nhân của xã hội. Đáng lưu ý ở giai đoạn này là tinh thần duy lý, trọng thực tiễn trong quan điểm và sáng tác văn chương, trong phương pháp biên soạn. Tinh thần dân tộc biểu hiện ở thái độ nhìn nhận, đánh giá lịch sử dân tộc, văn hóa dân tộc. Lê Qúi Đôn trong Toàn Việt thi lục đã viết: Nước Việt Nam từ khi mở cõi văn minh không thua kém gì Trung Hoa. Tinh thần ấy còn thể hiện ở hoài bão xây dựng
“một lá cờ cho y giới nước nhà” của danh y Lê Hữu Trác.
Trở lại với văn học, đề tài được mở rộng không còn bó hẹp ở luân lí, đạo đức phong kiến, văn học đề cập những vấn đề thiết yếu trong cuộc sống đương thời. Hình tượng trung tâm của văn học giai đoạn này là hình tượng người phụ
nữ với những phẩm chất tốt đẹp, với những niềm vui, nỗi buồn, những bi kịch và khát vọng của họ.Trong văn hoc, xuất hiện nhiều khuynh hướng tư tưởng rất phức tạp, thậm chí những khuynh hướng tư tưởng đối lập nhau cùng tồn tại trong một tác giả và trong một tác phẩm.Tuy nhiên, khuynh hướng phê phán hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa là khuynh hướng chính của văn học giai đoạn này.
Giữa những đổi thay chóng mặt của thời đại, Cao Bá Quát như một chứng nhân lịch sử.Cao Bá Quát xuất hiện như một hiện tượng lạ. Là một Nho sĩ, đáng ra Cao Bá Quát phải lấy chữ “trung quân ái quốc” làm đầu. Thế nhưng ông lại vùng lên chống trả quyết liệt chế độ phong kiến. Hành động này xuất phát từ sự ý thức về bản chất tàn bạo của triều Nguyễn, về xu thế tất yếu của lịch sử nhất là từ lương tâm khí phách của ông. Những hoạt động thực tiễn của Cao Bá Quát cũng như những tư tưởng và nguyện vọng của ông đã làm rõ xu thế đi tới tất yếu của thời đại, đồng thời cũng góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển của xu thế đó.
1.2.2. Cuộc đời Cao Bá Quát
Cao Bá Quát là một tác gia nổi tiếng của nền văn học Việt Nam thế kỉ XIX.
Ca ngợi Cao Bá Quát, dân ta thường truyền tụng những câu “Thần Siêu Thánh Quát”, “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán / Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường (Văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì đến văn đời tiền Hán cũng không có giá trị gì / Thơ đến như Tùng Thiện Vương (Miên Thẩm) và Tuy Lí Vương (Miên Trinh) thì như bỏ qua cả thời thịnh Đường)
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, xứ Kinh Bắc, nay là Gia Lâm, Hà Nội. Cao Bá Quát là anh em sinh đôi với Cao Bá Đạt. Cả hai anh em đều nổi tiếng học giỏi nhưng Cao Bá Quát có
phần xuất sắc hơn. Ông thân sinh ra Cao Bá Quát không đỗ đạt gì nhưng là một nhà Nho danh tiếng. Ông hướng con cái vào con đường khoa cử và hy vọng rất nhiều ở các con. Ông chọn hai tên trong tám kẻ sĩ đời Chu đặt tên cho hai đứa con sinh đôi của mình, mong muốn hai con sẽ trở thành những bậc hiền tài. Và tên tự của Cao Bá Quát cũng có ngụ ý đó. Cha ông là Cao Huy Gỉang đã nhận xét về tài của hai con như sau: “Văn của Bá Đạt hơn về khuôn phép nhưng kém về tài tứ. Văn của Bá Quát hơn về tài tứ nhưng kém về khuôn phép”. Cao Bá Quát là người rất thông minh, vui tính, hóm hỉnh, lại thêm tính cách ngang tàng, phóng túng không chịu khép mình vào khuôn khổ. Từ nhỏ Cao Bá Quát đã phải chịu những dằn vặt về bệnh tật, nghèo túng. Và khi lớn lên ông va phải nhiều bất hạnh.
Năm mười bốn tuổi, ông đã mang lều chõng đi thi nhưng bị trượt. Chín năm sau ông đậu cử nhân thứ nhì nhưng khi triều đình duyệt lại xếp ông cuối bảng.
Các kì thi Hội sau đó ông đều ứng thí nhưng cứ trượt mãi. Có thể do không chịu theo khuôn phép, cứ giữ ý riêng mình. Tuổi trẻ của ông được lưu lại bằng nhiều bài thơ tràn đầy khí phách.Núi Dục Thúy niềm tự hào của giang sơn đất nước, càng rực rỡ qua lời thơ trong sáng thiết tha. Khi lên núi ông muốn trèo lên đỉnh cao và hát vang gửi cùng mây nước như bài
Ngã dục đăng cao sầm Hạo ca kí vân thủy Hữu ước nãi vi tư Phàm sự đại đô nhĩ
(Ta muốn trèo lên đỉnh cao ngất kia Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước
Ước ao thế mà không được như nguyện
Đại phàm mọi việc đều thế cả)
Quá Dục Thúy Sơn Qua sông Hồng sóng nước mênh mông, ông coi nó như hình ảnh của tấm lòng muôn dặm của mình:
Bất kiến ba đào tráng An tri vạn lí tâm
Nếu không thấy ba đào hùng tráng Thì biết sao được cái chí lớn muôn dặm?
(Thanh Trì phiếm châu Nam H ạ) Tấm lòng muôn dặm ấy là tấm lòng của Cao Bá Quát, tình cảm nồng nhiệt với tổ quốc và đồng bào. Tuổi trẻ của ông là những ngày trong sáng và rực rỡ của một tài năng, một tâm hồn rộng lớn, một con người vĩ đại.
Trong khoảng năm 1830 đến năm 1840 ông sống cuộc đời của một hàn sĩ, một tài tử đa cùng nay đây mai đó, khi dạy học, lúc ngao du phóng đãng, cùng bạn bè viếng cảnh, làm thơ. Năm 1840, Cao Bá Quát được triệu vào kinh đô Huế, giữ chức Hành tẩu ở bộ Lễ. Thời gian làm ở bộ Lễ là thời gian ông hiểu thêm những cảnh thối nát, bất công và hèn yếu của triều đình Huế. Tình cảnh xã hội bốn chục năm qua không làm ông thỏa mãn.
Lúc đó ông nhận ra nguy cơ ngoại xâm đã từ lâu đe dọa đất nước. Tây Ban Nha, Hà Lan trước đây và Anh, Pháp bây giờ đang liên tiếp cử tàu buôn tới các cửa bể Đà Nẵng, Hà Tiên, Quảng Nam… Chính trong thời kỳ Cao Bá Quát ở bộ Lễ, một tàu Pháp đã đến Sơn Trà, còn tàu Anh thì lăm le ngoài biển. Ông không thể không lo lắng cho tổ quốc mình.
Sau đó được cử làm sơ khảo trường thi ở Thừa Thiên, ông đã cùng người bạn là Phan Nhạ dùng muội đèn chữa một số bài văn hay nhưng phạm quy. Việc bị phát giác ông bị khép tội chém. Nhưng sau đó được giảm án phải đày vào Đà Nẵng. Gần ba năm trời ông bị giam cầm hết nhà ngục này đến nhà ngục khác.
Đây là bước ngoặt lớn nhất trong cuộc đời ông. Nhân có một sứ bộ do Đào Trí Phú dẫn đầu sang Nam Dương (Indonexia) mua bán và trao đổi hàng hóa, Cao Bá Quát được đi để chuộc tội. Năm 1843 về Đà Nẵng ông được gọi trở lại bộ Lễ.
Ít lâu sau bị thải hồi về sống với vợ con ở Thăng Long. Năm 1847 lại được triệu vào kinh để làm một việc nhạt nhẽo là sưu tầm, sắp xếp thơ văn của Viện Hàn Lâm. Nhưng vì triều đình không chịu được sự ngay thẳng, hay châm chọc của Cao Bá Quát nên năm 1850 đã đẩy ông đi làm giáo thụ phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Đây là một nơi nghèo túng, hẻo lánh, vì thế với Cao Bá Quát sự thuyên chuyển này là sự đày ải. Giữa năm 1853 ông đã xin thôi việc về nhà lấy cơ nuôi mẹ già.
Khoảng năm 1853 nhiều nơi ở miền Bắc có nạn châu chấu phá hoại mùa màng nên cái đói hoành hành, nhân dân khốn khổ, sẵn bất bình với xã hội, lại được chứng kiến cảnh nhân dân đói khổ, Cao Bá Quát đã phất cờ khởi nghĩa.
Ông mượn cớ phù Lê tôn Lê Duy Cự lên làm minh chủ, tự xưng là quốc sư.
Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Mĩ Lương (nay là Mĩ Đức) Hà Nội, sau tiến đánh một số vùng ở Hà Nội và Sơn Tây. Do ảnh hưởng to lớn của cuộc khởi nghĩa nên Tự Đức đã treo giải thưởng 500 lạng bạc cho ai bắt sống được Cao và 300 lạng bạc cho ai giết được ông. Vì bị lộ sớm, lại bị triều đình tập trung đàn áp nên cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng thất bại. Năm 1855 trong trận chỉ huy chiến đấu ở Quốc Oai, ông bị Đinh Thế Quang bắn chết. Triều đình còn hạ lệnh “tru di tam tộc” Cao Bá Quát.
Hiện nay còn nhiều giai thoại xoay quanh cuộc đời và cái chết của ông .Cao Bá Quát từng có dịp đi ra nước ngoài đã tiếp xúc với một số tàu buôn của phương Tây và ông nhìn thấy nhiều điều mới lạ ở nơi ông đi qua. Nhưng các nước Campuchia, Indonexia nơi ông từng đặt chân đến đều là những nước chậm phát triển. Trong những điều kiện hạn chế đó ông chưa nhìn ra được sự vận động của lịch sử sẽ chuyển theo hướng nào.Bởi thế ông chỉ chống lại triều đình nhà Nguyễn mà chưa phải chống lại chế độ phong kiến nói chung. Ông chưa có tư tưởng cách mạng đối với xã hội của thời phong kiến, mới chỉ có tư tưởng lật đổ triều đình nhà Nguyễn để cải tạo xã hội trong khuôn khổ của một chế độ phong kiến lý tưởng.Sau khi ông mất, họa lớn lên cả gia đình thì thơ văn cũng bị thất lạc nhiều nhưng do vì yêu mến nên nhân dân vẫn còn lưu truyền và ghi chép lại được khá nhiều.
Những yếu tố thời đại, cuộc đời, con người Cao Bá Quát có ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp văn chương nói chung và thơ tha hương của ông nói riêng.