Thân phận cô đơn

Một phần của tài liệu Tha hương trong thơ cao bá quát (Trang 53 - 60)

CHƯƠNG 2 THƠ THA HƯƠNG VÀ NHỮNG CẢM XÚC, SUY TƯ CỦA NHÂN VẬT TRỮ TÌNH

2.2. Thơ tha hương và những cảm xúc, suy tư về thân phận

2.2.1. Thân phận cô đơn

2.2.1.1. Thân phận cô đơn của “ kẻ danh không thành chí không toại”

Cao Bá Quát theo đuổi nghiệp công danh từ sớm, tham vọng vào chốn quan trường muốn được mang tài năng giúp dân, giúp đời nhưng rồiông cũng phải ngao ngán:

Tần niên lao thiết nghiễn Hà nhật miện thánh điêu?

(Bao nhiêu năm liền khó nhọc mài nghiên sắt Biết ngày nào thấy được cái áo da điêu của vua)

Ban siêu đầu bút (7/123) ( Điêu: là một loài chuột có bộ da rất quý, các nhà quyền quý thường dùng để may áo mặc )

Cao Bá Quát là người có tài năng, tuổi trẻđã sớm tham gia các kì thi nhưng lại không may mắn. Hai câu thơđã diễn tả nỗi lòng thất bại sâu cay của ông. Khi bị ốm, Cao Bá Quát nhìn lại cuộc đời mình “cả tâm, lực đều đáng phàn nàn” vì vòng lưng gầy đi, chiếc thân như con ngựa chạy nghìn dặm và ý nghĩ cuối cùng là “muốn được nhàn”:

Xuân lai tâm lực lưỡng kham tăng Tổn tận yêu vi sấu bất thăng Nhập thế chính than thiên lý mã Khán thư song nhãn vạn niên đăng

(Từ sang xuân đến nay, cảm thấy tâm, lực cả hai đều đáng phàn nàn Vòng lưng sút đi gầy không xiết kể Vào đời, chiếc thân như con ngựa chạy nghìn dặm

Xem sách đôi mắt là ngọn đèn muôn năm)

Bệnh trung (12/141) Cao Bá Quát đi nhiều, cố gắng trên con đường danh vọng quá nhiều nhưng những gì nhận được đều chưa xứng đáng với điều ông mong đợi nên ông mỏi mệt và muốn được an nhàn, tĩnh dưỡng. Đó là tâm lý chung của nhiều nhà Nho lúc đó. Thân phận côđơn với cảnh sống lạc lõng nên càng khiến cho các thi nhân muốn được nhàn tâm lúc về già, chăm lo cho gia đình của mình. Cuộc sống tha hương đã khổ trăm bề lại mang trong mình nỗi niềm thân phận cô đơn làm cho ông càng buồn hơn.

Dư sinh cơ bạn chỉ vi danh Cánh trước ly tư nhất đoạn tình Kết tập vị trừ ưng nhĩ nhĩ

Si tâm tương chiếu nại khanh khanh?

(Đời ta bị rằng buộc chỉ vì chút danh nhỏ

Lại vương thêm một mối tình thương nhớ biệt ly Thói quen chưa bỏ hết, đành hãy như thế

Lòng ngây thơ đã thấu hiểu nhau rồi, nhưng biết làm thế nào, hỡi mình?)

Ký hận nhị thủ kì nhị (170/538) Cao Bá Quát nói “Đời ta ràng buộc chỉ vì chút danh nhỏ” nhưng chưa thoát ra được, bởi lẽ nếu “công thành danh toại” ông sẽ không nói như vậy để miên man và chi phối “vương thêm một mối tình thương nhớ biệt ly”. Thi nhân vẫn luôn làm tốt bổn phận và trọng trách của triều đình giao nhưng phấn đấu mãi vẫn chỉ là “chút danh nhỏ” mà vì nó mà xa cách quê nhànên ông càng buồn và cô dơn hơn.

Là một đấng nam nhi quả là phải trăm công nghìn việc, lo cho gia đình, lo sự nghiệp. Bản thân Cao Bá Quát cũng thế. Ông bất hạnh khi mình phải xa gia đình nhưng cái giá mà ông nhận lại chẳng hậu hĩnh chút nào, công danh vẫn lận đận. Ông những tưởng sự hi sinh của mình sẽ gặt hái được hạnh phúc cho mình và cho gia đình nhưng lại ngược lại, cái giá của nho sĩ bậc nho sĩ Bắc Hà này phải trả vẫn là nỗi bất hạnh. Cao Bá Quát mệt mỏi với thế cuộc, với tranh đua nên cứ suy nghĩ lại muốn “nhàn”, muốn cuộc sống nhẹ nhàng mà có thể yên ổn bên gia đình và thể hiện tài năng, đam mê của mình với thơ ca, với thiên nhiên.

Thế giới của kẻ tha hương với thân phận côđơn là tìm về với sự yên ấm, thanh bình, hạnh phúc bên gia đình.

Quả là thân phận côđơn của một “kẻ danh không thành chí không toại” thể hiện nối tiếp trong các bài thơ chữ Hán của một con người muốn cống hiến hết mình cho quê hương, đất nước mà không được. Tâm trạng Cao bá Quát có lẽ cũng là tâm trạng chung của những nho sĩ Bắc Hà thời ấy.

2.2.1.2. Sự cô đơn của một con người đơn phương độc mã, ít tri âm, tri kỉ

Qua thơ tha hương, có thể thấyCao Bá Quát là một người cô đơn, nhiều khi đến cô độc. Với họ hàng, ông bị coi là một kẻ “càn rỡ ngông cuồng”, “ thân không kiểm thúc rồi đến thất chí, bại danh”. Với bạn bè cũng khó có người hiểu được tâm sự của ông. Cao Bá Quát là người giao tiếp rất rộng, bạn bè ông là những danh sĩ nổi tiếng khắp cả ở trong Nam lẫn ngoài Bắc như Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Trần Văn Vi, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý, Diệp Di Xuân… trong mắt họ ông là người bạn rất đáng ngưỡng mộ và trân trọng, rất đáng yêu nhưng đồng thời cũng rất đáng sợ. Cao Bá Quát lúc nào cũng muốn

vượt ra khỏi khuôn khổ tù túng của xã hội đương thời, những hành động bất chấp luật lệ của ông nhiều khi đã làm lụy đến bạn bè. Đến như Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, người bạn thân thiết cũngcó khi không thể thấu hiểu nỗi niềm tâm sự trong lòng ông.

Cơ bạn thử thân câu hệ vật Thiếu niên đoan đích lược tri tân

(Cái thân bị ràng buộc chỉ vì cùng vương vít với việc đời

Tuổi tuy còn ít, song rõ ràng là đường đời đã biết qua bờ bến)

Hí tặng Phan Sinh(142/474) Qua hai câu thơ trên, Cao Bá Quát thẳng thắn thừa nhận nỗi niềm côđơn của thi nhân “cái thân bị ràng buộc chỉ vì cùng vương vít với việc đời”. Thi nhân thành thật giãi bày cảm xúc thật của mình không chút giả dối. Vận đời đổi thay nhanh chóng, chính ông cũng trải qua nhiều chuyện, luôn được coi là “khác người khác”, nên ông luôn cô độc. Dường như người đời không ai hiểu nổi Cao Bá Quát, mặc dù bạn bè giao du rất rộng:

Liêu diêu tiếu ngã vị an sào Hoạn đồ tối thị tiên tinh thiểu Thế lộ thành tri bất trước cao Dục tá đại quan tiêu lữ muộn

Khước tu tuyền thạch hướng nhân trào

(Cười cho tôi phận nhỏ như chim ri, chim chích mà vẫn chưa yên tổ Đường làm quan (như giấc mơ) ít ai tỉnh sớm

Cuộc đời (như ván cờ) người không đặt nước mới là cao Muốn mượn cả vũ trụ để làm khuây mối sầu lữ thứ Nhưng lại sợ dòng suối mỏi đá chế giễu cho)

Ký Nguyễn cố hữu hồi tịch (174/547) Tác giả tự ví mình như loài chim chưa có nơi để yên vị, đường làm quan như giấc mơ, cuộc đời như ván cờ. Dưới những vần thơ là những năm tháng buồn tủi, côđơn muốn thực hiện ước vọng thành danh mà không nổi, muốn ai hiểu mà vẫn “đơn thương độc mã”. Cao Bá Quát như con ngựa cứ rong ruổi đường xa mà chưa rđiểm dừng. Ông muốn “mượn cả vũ trụ để làm khuây mối sầu lữ thứ”.

Vào đời với tâm thế tươi vui của thời trai trẻ vàCao Bá Quát cũng sớm hiểu ra quy luật tàn ác của chốn quan trường, vì danh lợi như mưa buổi sáng chóng vánh không ổn định. Cao Bá Quát hiểu ra quy luật ấy và tự cười mình khi mình còn vướng vào vòng xoáy của công danh mà chưa sao dứt được, ai cũng hiểu rằng bước vào đã khó mà bước ra lại còn khó hơn nhiều lần.

Tâm tàn và lực cũng đã kiệt vì “thân nhiều bệnh biết dùng đâu được”,

“công danh cùng khốn theo tướng mạo”, còn trẻ còn khỏe còn đi muôn nơi, nay già rồi chỉ mong được “nhàn” trở về với quê hương bản quán không muốn đi, không muốn làm gì nữa âu cũng là tâm lý chung. Cả cuộc đời sống hết mình nhưng luôn côđơn. Cao Bá Quát rõ hơn ai hết những nỗi đau thương của kẻ tha hương côđơn buồn nhiều hơn vui.

Trong bài “ Giản Nguyễn Phương Đình” ông vừa giận trách vừa chua xót

“ta tự mắng ta”:

Nhân bất mạ dư dư tự mạ Tiện yêu mạ nhân dư bất hạ Bình sinh toán chỉ kiến nhân đa

Tam vị chi ngôn thắng đạm giá

(Người không mắng ta, nhưng ta tự mắng ta Muốn ta mắng người ư, ta chẳng rỗi

Trước nay tính dừng lại gặp nhiều người

Lời nói khi có ba chén rượu mùi còn hơn cây mía nhạt nhẽo)

Chính sự cô đơn ngay ở giữa bạn bè thân thiết là lý do khiến ông ngậm ngùi thốt lên:

Tứ hải tri giao vô ngã chuyết Bách niên tâm sự cộng thùy khai

Bạn bè bốn biển chẳng ai vụng về như ta

Vì thế nên tâm sự trăm năm biết bày tỏ cũng ai?

(Bạc xuân giản Nguyễn Chính Tự) Thời đại mà mọi ứng xử của kẻ sĩ đều tuân thủ theo mực thước Nho giáo, Cao Bá Quát không giả vờ khiêm tốn nhún nhường, cũng không chịu khuất mình trước quyền lực và lại càng không chịu chấp nhận lui vào ẩn dật để được yên bình. Sao ông không giống những người bạn trí thức Bắc Hà khác như Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan… rời khỏi triều đình quay về mở trường dạy học ở đất Thăng Long. Mọi việc diễn ra và không ai hiểu nổi: tại sao một con người xuất thân trong gia đình Nho học lâu đời như ông cuối cùng lại chọn con đường “nổi loạn” chống triều đình. Cao Bá Quát có một nỗi buồn về thân phận và cuộc đời là “kẻ danh không thành chí không toại không tin dùng còn nỡ dang tay”. Bởi ông muốn đem hoài bão giúp dân, giúp nước, nhưng

không sao thực hiện được lại phải tận mắt chứng kiến cảnh thối nát của bọn quan lại vua chúa, cảnh dân chúng đói khổ, lầm than và nguy cơ ngoại xâm đang đến gần. Chế độ đã không tin dùng còn nỡ dang tay vùi dập tài năng nên nỗi buồn chứa mãi trong lòng ông, lâu ngày biến thành nỗi bi phẫn không sao kìm nén lại được.

Ông thất vọng với con đường công danh đã tìm đến con đường tráng sĩ.

Ông muốn lấy cái chất hào hùng của tráng sĩ để xoa dịu nỗi đau, lấn át cái

“bi”của kẻ sĩ không gặp thời. Thế nhưng tâm trạng đau buồn vì sự nghiệp không thành vẫn cứ ám ảnhCao Bá Quát. Bởi vậy chất tráng sĩ dẫu có hào hùng khí thế vẫn chất chứa một niềm đau. Người anh hùng không kéo lại được nước nghìn năm là vậy. Ông tự trách mình là sinh nhầm thời, biết có làm nên trò trống gì không? Và Cao chua xót tự kiểm nghiệm lại “Nơi chân trời, cây đàn, thanh kiếm đã đi lầm đường”.

Sự bất đắc chí trong cuộc đời, sự thăng trầm trên bước đường đời đã làm cho cái tôi cá nhân tự ý thức về cuộc đời, về tuổi trẻ trỗi dậy trong ông. Chính do ý thức được con đường tiến thân của mình mờ mịt nên ông đâm ra buồn chán, có ý nghĩ về nhàn và nhàn là tìm tới rượu:

Bôi tửu công danh tích tạm nhàn

(Khi nâng chén rượu tiếc cho công danh trong cảnh tạm nhàn)

(Sơ thu vịnh Hoài Phủ, Minh Trọng nhị tri kỷ) Ông tìm đến rượu để quên đi thân phận, để an ủi tâm hồn, để giải sầu, đểmua vui, uống rượu trong lúc nhàn rỗi, khi du ngoạn. Ông mượn rượu để thổ lộ nỗi bất bình:

Bạc trước sấn lương dạ Uý ngã cơ lưu hồn

(Nhân lúc đêm thanh nhấp qua chén rượu Để an ủi cái tâm hồn bị trói buộc của mình)

(Thu dạ độc tọa tức sự) Cuộc đời thăng trầm, đường đời gian khó, công danh lận đận nên Cao Bá Quát cần có rượu để tưới cho tan bao nỗi sầu, tan khối bất bình chất chứa trong lòng Những lúc ấy ông cố nuốt những giọt “ảnh hoa” để bày tỏ nỗi lòng mình.

Rượu đã uống mà lòng người không sao giải tỏa được. Uất ức ông nâng chén rượu ra bày tỏ cũng trời xanh nhưng trời cao nên không hỏi được, con người buồn đành say với rượu.

Cao Bá Quát mượn rượu để say, để quên, nhưng thực ra ông tỉnh hơn ai hết, cũng giống như Khuất Nguyên: Cuộc đời đục chỉ còn mình ta trong/ Người đời say cả chỉ mình ta tỉnh

Một phần của tài liệu Tha hương trong thơ cao bá quát (Trang 53 - 60)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(161 trang)