Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ẰNG DÂN TỘC TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY
2.1. Vài nét khái quát về tình hình kinh tế - xã hội ở tỉnh Yên Bái
2.1.2. Khái quát về đặc điểm cơ cấu, phân bố, hình thái cư trú và văn hoá các dân tộc ở tỉnh Yên Bái
2.1.2.1 Đặc điểm về cơ cấu, phân bố các dân tộc tỉnh Yên Bái
Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có tới 30 dân tộc sinh sống, trong đó có 7 dân tộc có dân số trên 10.000 người, 2 dân tộc có từ 2.000 - 5.000 người, 3 dân tộc có từ 500 -2.000 người. Trong đó người Kinh chiếm 49,6%, người Tày chiếm 18,58%, người Dao chiếm 10,31%, người HMông chiếm 8,9%
người Thái chiếm 6,7%, người Cao Lan chiếm 1%, còn lại là các dân tộc khác.
Đặc điểm phân bố dân cư các dân tộc ở Yên Bái không có lãnh thổ tộc người rõ rệt, họ sống xen kẽ với nhau. Tuy vậy mỗi dân tộc đều có những vùng quần tụ đông đảo của mình.
+ Vùng thung lũng sông Hồng chiếm 41% dân số toàn tỉnh, trong đó: người Kinh 43%, người Tày chiếm 33%, người Dao chiếm 10%, người Hmông chiếm 1,3% so với dân số toàn vùng.
+ Vùng thung lũng sông Chảy chiếm 28% dân số toàn tỉnh. Trong đó người Kinh chiếm 43%, người Tày chiếm 11%, người Dao chiếm 13%, người Nùng chiếm 7%... so với dân số toàn vùng.
+ Vùng ba huyện phía Tây (Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn) chiếm 31%
dân số toàn tỉnh. Trong đó: người Kinh là 33%; người Thái 19,2%, Tày 11,8%, Hmông 24,1%; người Mường 5,2% và người Dao 5,1% so với dân số toàn vùng.
Ngoài ra tại các vùng này dân số dân tộc đó chiếm tỷ lệ cao hơn so với dân tộc khác cùng cư trú. Tiêu biểu là người Hmông cư trú tập trung ở hai huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải; người Thái, người Mường ở huyện Văn Chấn; người Dao ở các huyện Văn Yên, Văn Chấn; người Cao Lan ở huyện Yên Bình; người Kinh ở thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ; người Tày, người Nùng ở các huyện Lục Yên, Văn Chấn; người Khơ Mú ở xã Nghĩa Sơn huyện Văn Chấn; người Xá Phó ở xã Châu Quế Thượng huyện Văn Yên...
2.1.2.2. Đặc điểm về hình thái cư trú, văn hoá và kinh tế của các dân tộc tỉnh Yên Bái
Các dân tộc ở tỉnh Yên Bái cư trú ở những độ cao khác nhau nên phân thành vùng cao và vùng thấp và rẻo giữa. Do đó đời sống văn hóa, kinh tế của đồng bào ở mỗi vùng có những nét đặc thù riêng như sau:
- Dân tộc Kinh: Dân tộc Kinh có trên 400.000 người, chiếm 49,6% dân số toàn tỉnh, sinh sống ở 9/9 huyện, thị xã, thành phố. Địa bàn sinh tụ chủ yếu ở lưu vực sông Hồng, sông Chảy, dọc theo các tuyến đường quốc lộ gần trung tâm kinh tế - văn hóa, những vùng có điều kiện để phát triển kinh tế, giao thông thuận lợi.
Theo nhiều nguồn tư liệu cho thấy người Kinh đã có mặt ở Yên Bái từ rất sớm: Năm 1961 tại xã Đào Thịnh huyện Trấn Yên phát hiện một thạp đồng lớn, trên nắp thạp có các cặp nam nữ đang giao phối biểu thị sự tồn tại của nòi giống.
Năm 1964 tại hang Hùm (huyện Lục Yên) tìm thấy bộ hài cốt của người Việt cổ có tên là Hô-Mô-Sa-Piên cách đây 8 vạn năm (Tiến sĩ Kal người Đức đã đến hang Hùm kiểm tra trước khi khẳng định hiện vật quý này). Năm 1995 tại đỉnh đồi đầu cầu Yên Bái (thuộc xã Hợp Minh thành phố Yên Bái) đào được một thạp đồng trong đó có bộ hài cốt của một bé gái 5 tuổi gần như còn đầy đủ cùng các vật tùy táng cách đây 2000 năm. Nhiều tư liệu lưu giữ tại bảo tàng Yên Bái cho thấy con người của thời kỳ Hùng Vương và sau Hùng Vương cư trú ở trung tâm Yên Bái và vùng đất Thu Vật xưa. Năm 1285 tướng quân Trần Nhật Duật đời vua Trần Nhân Tông đã chỉ huy quân đội chiến đấu chống giặc Nguyên - Mông lần thứ 2 trên đất Thu Vật. Theo Kiến Văn Tiểu Lục (quyển 2) của Lê Quí Đôn thì năm 1533 anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên là người Kinh ở huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương phù Lê chống Mạc chạy lên Thu Vật (huyện Yên Bình ngày nay). Vũ Văn Mật xưng là chúa Bầu tập trung người các dân tộc thiểu số và người Kinh khắp nơi xây thành đắp lũy trấn ải một vùng gọi là thành nhà Bầu. Như vậy, người Kinh có mặt ở Yên Bái rất sớm và họ đã cùng với đồng bào người dân tộc thiểu số hòa nhập để cùng mở mang khai phá vùng đất này.
+ Về kinh tế: Với phần lớn là dân từ vùng đồng bằng Bắc Bộ - vựa lúa lớn của Miền Bắc chuyển lên, dân tộc Kinh ở Yên Bái đã đem kinh nghiệm và sức lực, trí tuệ quyết tâm chinh phục và xây dựng vùng đất mới. Đồng bào Kinh đã tiên phong trong việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa giống mới vào đồng ruộng, năng suất lúa ngày càng nâng cao; Từ 4 đến 5 tấn/ha từ những năm 70 nay đã đạt trung bình trên 10 tấn/ha. Bên cạnh cây lúa cổ truyền, đồng bào trồng các loại khoai, đỗ, sắn, ngô...
Đồng bào Kinh khai hoang canh tác ở vùng đất thấp chủ yếu dọc theo lưu vực sông Hồng song cũng có một số bộ phận đến sinh sống ở vùng cao, rẻo giữa các
vùng dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao, Thái. Mường... Ngoài trồng lúa nước, đồng bào còn khai phá đất hoang làm nương rẫy trồng lúa, ngô, sắn... và phát triển nghề rừng, vườn rừng, trồng các loại cây ăn quả phù hợp như cam, quýt ở huyện Lục Yên, Văn Chấn... Trồng các loại cây công nghiệp như mía, quế ở huyện Văn Yên;
trồng chè, nhãn ở huyện Văn Chấn; trồng sắn ở các huyện Văn Yên, Trấn Yên...
Những năm gần đây Yên Bái là một trong những tỉnh có kinh tế trang trại với mô hình VRAC (vườn, rừng, ao, chuồng) phát triển khá mạnh bước đầu thu được kết quả đáng khích lệ. Những kinh nghiệm làm kinh tế của người Kinh được đồng bào các dân tộc thiểu số học tập và cùng phát triển. Có những trang trại đem lại nguồn thu từ 100 đến 200 triệu đồng/năm. Ngoài phần lớn thu từ cây công nghiệp, cây lấy gỗ, cây ăn quả thì chăn nuôi cũng góp phần quan trọng trong tổng thu nhập của người Kinh...
Bộ phận kinh doanh buôn bán và các doanh nghiệp sản xuất nhỏ phần lớn có người Kinh tham gia. Từ buôn bán nhỏ, hơn 15 năm trở lại đây, nhiều người có vốn lớn đã thành lập các Công ty kinh doanh các mặt hàng như vàng, bạc, đá quý; hàng điện tử, điện lạnh; sản xuất vật liệu xây dựng, kim khí, đồ gia dụng...Hình thành những làng nghề như miến đao ở xã Giới Phiên (thành phố Yên Bái).
+ Về văn hoá: Sự định cư của đồng bào Kinh trên vùng đất trung du miền núi không xa cố đô Phong Châu đã mang theo những nét văn hoá đặc sắc của người Việt giao hoà với văn hoá dân tộc thiểu số tạo nên bản sắc văn hoá rất đáng quý của dân tộc Kinh Yên Bái, góp phần tôn phong giá trị văn hoá chung của nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
Trước hết là làng xóm: Nếu như nhà trình tường đất, cụm xóm tre xanh, cây đa giếng nước mái đình... là đặc trưng nơi ở của người Kinh đồng bằng Bắc Bộ thì khi hoà nhập với đồng bào miền núi dân tộc ít người, thay vào đấy là thôn làng chạy dọc các tuyến đường hoặc phân tán quanh các thung lũng, khe suối. Nhà ở không làm tường đất, lợp rơm rạ mà trước đây thường lịa ván bốn xung quanh, lợp cọ; nền sân, công trình phụ được đắp bằng các vật liệu khoáng sản sẵn có như cao lanh, đá vôi. Cũng không ít gia đình làm nhà sàn để ở như dân tộc thiểu số vừa để tận hưởng cảnh vùng đồi núi, vừa hài hoà với cuộc sống của đồng bào dân tộc. Hơn hai chục năm trở lại đây, nhiều gia đình người Kinh ở các đô thị và không ít gia đình ở nông thôn đã dùng vật liệu đất nung, xi măng, sắt thép để xây dựng nhà ở.
Chữ viết được duy trì nghiêm ngặt mang tính quốc gia, nhưng tiếng nói có phần chuyển hoá. Người Kinh ở miền Trung, ở Hà Tây, Thái Bình... khi nói có những âm tiết được phát âm khác nhau, nhiều từ địa phương khác nhau mặc dù cùng để chỉ một hiện vật. Quá trình định cư ở Yên Bái cách phát âm và từ địa phương ấy bị mất dần, thế hệ thứ ba, thứ tư sau định cư không còn quen với tiếng nói quê gốc. Một đặc điểm nữa là đồng bào Kinh nhập tâm tiếng nói của người dân tộc rất nhanh, sống với vùng dân tộc nào chỉ một vài năm là họ có thể hiểu được nội dung và nói chuyện thông thường với dân tộc ấy, thậm chí hoà nhập với người dân tộc thiểu số chỉ trong một thời gian ngắn.
Phong tục tập quán và văn hoá tín ngưỡng của người Kinh Yên Bái không còn giữ được đầy đủ như quê gốc đồng bằng. Một phần do quá trình thuyên chuyển cần có sự đơn giản hoá để phù hợp với môi trường mới, phần khác do điều kiện sinh hoạt ở miền núi không cho phép.
Tín ngưỡng truyền thống của đồng bào Kinh là thờ cúng tổ tiên. Truyền thống này gần như được đại gia đình các dân tộc Việt Nam tôn trọng, hướng theo.
Người Kinh miền xuôi tôn thờ bốn vị linh thiêng đất nước: Mẫu Thượng Ngàn, Thần núi Tản Viên, Thánh Gióng, Đức thánh Trần Hưng Đạo, thì ở Yên Bái người Kinh một số nơi cũng đặt bài vị thờ các vị này (đền Đông Cuông, đền Thác Bà, đền Bách Lẫm...). Rõ ràng nơi thờ cúng, nghi lễ tâm linh của người Kinh Yên Bái gần như không thay đổi so với các vùng quê gốc.
Sinh hoạt văn hoá và nghề truyền thống của người Kinh ở Yên Bái mang tính quần chúng, phổ thông nhiều hơn độ chuyên sâu. Văn học truyền miệng và văn học viết của người Kinh có rất sớm. Văn học viết bắt đầu từ các bản văn tự Hán - Nôm đời Trần qua các bản gia phả, chúc thư, hiện vật khảo cổ và chữ la tinh, chữ quốc ngữ sau này. Văn học dân gian cũng xuất hiện khoảng thời gian đời Lý - Trần hoặc sớm hơn vài ba thập kỷ. Các cốt truyện cổ nổi tiếng ở đồng bằng như Tấm Cám, Cóc kiện trời, Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Thánh Gióng, Cây khế... được đưa lên miền núi lưu truyền sâu rộng trong nhân dân, thậm chí trở thành mô típ cho các sáng tác dân gian của người dân tộc thiểu số. Câu ca dao: “Còn tiền chợ Ngọc chợ Ngà, Hết tiền xuôi ngược thác Bà, thác Ông” hay “Muốn ăn gạo trắng nước trong, Vượt qua đèo Ách vào trong Mường Lò”; chắc chắn có từ xa xưa. Rồi qua cuộc khởi nghĩa Cần Vương, khởi nghĩa Yên Bái, các cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay; đồng bào Kinh Yên Bái tiếp tục có những tác phẩm văn học viết, tác phẩm văn học truyền miệng được nhân dân thừa nhận, lưu truyền.
- Dân tộc Tày ở Yên Bái có khoảng 120.000 người, chiếm 18,58% dân số toàn tỉnh. Đồng bào Tày sống tập trung đông ở 7/7 huyện thị trong tỉnh (trừ 2 huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải). Trong đó đông nhất là các huyện: Lục Yên 53,18% dân số; Văn Chấn 16,09%; Yên Bình: 15,56%; Văn Yên: 15% dân số toàn huyện [29, tr.18].
Địa bàn cư trú của đồng bào Tày phần lớn ở những nơi có điều kiện sản xuất nông nghiệp và thuận lợi giao thông. Ngoài ra còn ở các xã vùng cao còn gặp nhiều khó khăn trong việc thông thương hàng hoá, đi lại, đời sống còn nghèo như: Xuân Long (huyện Yên Bình); Thượng Bằng La, Đồng Khê (huyện Văn Chấn); Lâm Thượng, Khánh Thiện... (huyện Lục Yên); Việt Hồng, Hồng Ca... (huyện Trấn Yên)...
Người Tày sinh sống ở Yên Bái đã từ lâu đời. Một số người Tày ở huyện Văn Yên di cư từ Lạng Sơn sang Yên Bái từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Một số người Tày ở các huyện Văn Chấn, Trấn Yên có gốc người Việt di cư từ các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Hải Dương, Nghệ An lên Yên Bái, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà dần dần đã Tày hoá. Bộ phận người Tày ở vùng Lục Yên mang nhiều giá trị văn hoá độc đáo riêng biệt so với người Tày ở vùng Văn Chấn, Trấn Yên và khác biệt so với người Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam.
+ Về kinh tế chính của người Tày ở Yên Bái là nền kinh tế nông nghiệp, đồng bào làm ruộng nước kết hợp với săn bắt và chăn nuôi. Với truyền thống lâu đời cùng với sự cần cù, sáng tạo trong lao động và tiếp thu khoa học kỹ thuật mới rất nhanh nên nông nghiệp của người Tày phát triển tương đối cao. Năng suất lúa đạt 9 - 10 tấn/ha/năm. Cùng với việc thâm canh tốt 2 vụ lúa, đưa giống mới vào sản xuất, tăng vụ ngô đông, đồng bào Tày phát triển mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm; tích cực phát triển nghề rừng và trồng mới các loại cây công nghiệp như: chè, quế, sắn. Nghề thủ công truyền thống như trồng bông dệt vải đã phát triển từ rất sớm, nghề nuôi tằm để lấy tơ dệt dây dao Slaicha cũng có mặt trong văn hoá của người Tày nơi đây từ lâu. Hoa văn dệt trên vải thổ cẩm phong phú, đa dạng, riêng dây dao gồm hai mươi bảy hình tượng, mỗi hình gắn với một truyện dân gian có
nội dung giáo dục tình người sâu sắc. Nghề làm giấy dó, nghề đan lát, nghề mộc, nghề rèn, nghề đục đá phát triển khá cao.
+ Về văn hoá: Đồng bào Tày Yên Bái có phong cách sống sôi nổi, mạnh mẽ, lãng mạn. Những dịp tết Nguyên đán, lễ hội Lồng Tồng, lễ Tăm Khảu Mảu, lễ cưới của bạn bè, họ hát giao duyên Slípsí suốt ngày đêm. Những bài Khắp cọi được duy trì từ đời này sang đời khác. Thiếu nữ, thanh nữ Tày xinh xắn với những lễ phục cổ truyền màu đen, khoẻ mạnh, má ửng hồng, đánh còn, đánh yến đến với những lễ hội hồn nhiên chân thực càng làm tăng thêm vẻ đẹp của cộng đồng.
Trang phục của người Tày chủ yếu bằng vải bông nhuộm chàm đen cho cả nam, nữ và trẻ em, ít hoặc không trang trí hoa văn. Phụ nữ Tày mặc áo năm thân có thắt lưng bằng vải chàm gấp lại buộc phía sau, đi đôi với váy trong dịp cưới, ngày lễ và tết. Ngày thường mặc áo ngắn với váy hoặc quần, áo ngắn may không cổ kiểu giống áo bà ba. Đàn ông mặc áo tứ thân cổ tròn, khuy vải hoặc cúc và quần lá tọa, y phục này người lớn tuổi thường dùng, thanh thiếu niên hiện nay mặc như người Kinh. Phụ nữ thường đội khăn nhuộm chàm, khăn vuông gấp xéo, có hai dải vải đỏ nhỏ buộc về phía trước trán, đuôi khăn lật về phía sau. Đàn ông chỉ đội khăn xếp dịp lễ tết, đặc biệt là lễ đón dâu, hoặc đi ở rể. Đồ trang sức chủ yếu dùng chất liệu bằng bạc, như vòng cổ của trẻ con, vòng tay của phụ nữ, dây xà tích...
Trong quá trình giao lưu văn hoá Kinh - Tày, Hán - Tày, nhiều cốt truyện đã được chuyển thể sang Nôm Tày như Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa...
đồng thời, người Tày đã sáng tạo ra những kiệt tác như Khảm Hải (Vượt biển), nhiều bài khắp cọi, Phongslư, Pụt, hát quan làng (Hát đón dâu) có giá trị nhân văn sâu sắc.
Hôn nhân của người Tày được tiến hành qua nhiều nghi thức độc đáo và đặc sắc, nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống được thực hiện trong đám cưới truyền thống mà trong đó hát quan làng (hát trong đám cưới của ông mối) là một trong những nghi thức sinh hoạt đặc sắc nhất vẫn còn được lưu giữ cho tới ngày nay. Lễ cưới truyền thống từ khi làm quen được với nhau sẽ trải qua các giai đoạn chủ yếu, thưa chuyện với gia đình thông qua bước trung gian là quan làng (ông mối) xem ngày qua thầy cúng lễ Slicay (lễ bốn gà), lễ cưới, lễ lại mặt, tết quan làng. Các bước này tiến hành hàng năm trời có khi đến 3 năm.
Tang lễ của người Tày với những nghi thức và chịu ảnh hưởng nhiều của tam giáo. Nhiều giá trị nhân văn được thể hiện thông qua tang ma truyền thống của đồng bào. Tang lễ truyền thống của người Tày ở Yên Bái tích hợp nhiều giá trị nghệ thuật dân gian đặc sắc như nghệ thuật tranh cắt giấy (qua nhà táng), nghệ thuật trình diễn dân gian, nghệ thuật trang trí… Tuy nhiên, ở những bản xa các trung tâm xã, đời sống của nhân dân còn khó khăn, đôi khi tang lễ cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất và phát triển kinh tế gia đình.
Nền mỹ thuật đặc sắc của người Tày Yên Bái từ ngàn xưa nay được bảo lưu trên thổ cẩm như hoạ tiết trên màn che Phứn mản, mặt gối mon thu, mặt địu nả đa, dây dao Slaichạ, y phục thầy cúng, y phục Pụt. Đặc biệt là bộ tranh thờ của thầy cúng từ 7 đến 12 tờ với những hình tượng người, quỷ, con vật sinh động.
- Dân tộc Dao: Trong các dân tộc anh em sinh sống ở Yên Bái, người Dao là dân tộc có dân số khá đông, hiện nay có khoảng 62.000 người, chiếm 10,31% dân số toàn tỉnh. Địa bàn cư trú của người Dao chủ yếu ở rẻo giữa - vùng tiếp giáp giữa vùng thấp và vùng cao. Người Dao sống tập trung đông nhất ở huyện Văn Yên, chiếm đến hơn 30% tổng số người Dao ở Yên Bái, sau đó đến các huyện Yên Bình, Lục Yên, Văn Chấn và Trấn Yên. Các xã có đồng bào Dao cư trú là: Xuân Tầm, Mỏ Vàng, Viễn Sơn, Đại Sơn, Lang Thíp, Châu Quế Thượng (huyện Văn Yên);
Bảo Ái, Phúc An, Tân Nguyên, Yên Thành, Tân Hương, Cảm Nhân, Tích Cốc, Vũ Linh, Bạch Hà, Vĩnh Kiên (huyện Yên Bình); Tân Lĩnh, Phúc Lợi, Phan Thanh, Trung Tâm, Tân Phượng, Động Quan (huyện Lục Yên); Lương Thịnh, Y Can, Tân Đồng, Kiên Thành (huyện Trấn Yên); Minh An, Nậm Mười, Suối Quyền, An Lương, Nậm Lành, Nậm Búng (huyện Văn Chấn), các xã có đông người Dao sinh sống chủ yếu là ở phía thượng huyện Văn Yên, là địa bàn tiếp giáp giữa các huyện Văn Chấn và Văn Yên, huyện Văn Chấn và Trấn Yên, thuộc phía Tây bắc và Đông bắc huyện Yên Bình, vùng giáp ranh giữa huyện Lục Yên và Yên Bình, vùng giáp ranh giữa huyện Lục Yên và huyện Bảo Yên (tỉnh Lào Cai) [9, tr.27].
Người Dao hiện sinh sống ở tỉnh Yên Bái có 4 nhóm chính là: Dao Đỏ (còn gọi là Dao Sừng, Dao Đại Bản), Dao Quần Chẹt (còn gọi là Dao Nga Hoàng, Dao Sơn Đầu), Dao Quần Trắng và Dao Làn Tuyển (còn gọi là Dao Tuyển). Để phân biệt các nhóm Dao, chủ yếu dựa vào sự khác nhau trong bộ trang phục của phụ nữ.