Đặc điểm kinh tế - xã hội của Tỉnh Thái Bình có ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp tư nhân

Một phần của tài liệu LUẬN văn doanh nghiệp tư nhân ở thái bình hiện nay (Trang 29 - 34)

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

Thái Bình là một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng. Diện tích tự nhiên 1.542,24 km2, chiếm 0,5% diện tích đất đai của cả nước. Phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng. Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Nam Định và tỉnh Hà Nam. Phía Nam giáp Vịnh Bắc bộ. Là một tỉnh nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh nói riêng và khu vực kinh tế đồng bằng Bắc bộ và vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ nói chung, cho phép Thái Bình khả năng liên kết vùng để phát huy lợi thế của địa phương, đồng thời thu hút có hiệu quả các nguồn lực từ các địa phương trong nước và nguồn lực của nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có DNTN.

Địa hình Thái Bình tương đối bằng phẳng, đất đai phì nhiêu màu mỡ, nổi tiếng được xem là “bờ xôi ruộng mật” của vùng đồng bằng Bắc bộ do được bồi tụ phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Hệ thống công trình thủy lợi tưới tiêu đồng bộ... Đó là điều kiện thuận lợi để Thái Bình phát triển nông nghiệp hàng hóa với nhiều loại cây trồng, vật nuôi đa dạng, phong phú như cây lương thực (lúa), cây thực phẩm xuất khẩu (khoai tây, dưa chuột, hành, tỏi, lạc, đậu tương, ớt...) và cây ăn quả nhiệt đới (cam, táo, ổi bo, nhãn, chuối) và trồng hoa, cây cảnh... Thái Bình cũng là tỉnh có diện tích ven đê, ven sông và hệ thống kênh mương, ao hồ rộng khắp. Đây là điều kiện để phát triển ngành chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, vịt, cá...

Tiềm năng và nguồn lợi thủy sản của Thái Bình được xem là một thế mạnh của tỉnh với ba thủy vực khác nhau: nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Trong đó, diện tích nước mặn chiếm khoảng 17km2, chủ yếu dành cho hoạt động khai thác hải sản. Tổng trữ lượng hải sản vùng ven biển Thái Bình khoảng 26.000 tấn. Trong đó, trữ lượng cá 24.000 đến 25.000 tấn; trữ lượng tôm khoảng 600 đến 1.000 tấn; trữ lượng mực 700 đến 800 tấn. Khả năng khai thác tối đa nguồn lợi hải sản khoảng 12.000 đến 13.000 tấn. Vùng nước lợ chủ

yếu ở các khu vực cửa sông Hồng, sông Thái Bình và sông Trà Lý có các nguồn phù du sinh vật, các loại tảo thực vật, thủy sinh phong phú, làm thức ăn tự nhiên cho nuôi trồng thủy sản. Vùng này chiếm khoảng 20.705 ha, tập trung ở hai huyện Tiền Hải và Thái Thụy. Trong đó, diện tích có khả năng phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ là 5.453 ha.

Hiện nay, đã đưa vào khai thác 3.629 ha để nuôi trồng thủy sản như tôm, cua, sò, hến, trồng rau câu...Vùng nước ngọt có tổng diện tích nuôi trồng thủy sản là 9.256 ha, hiện nay mới đưa vào nuôi khoảng 6.020 ha. Ngoài ra, còn có trên 3.000 ha vùng lúa cấy một vụ năng suất thấp có thể chuyển sang nuôi thủy sản [51]. Nguồn nước ngọt của Thái Bình phong phú và chủ yếu là nguồn nước mặt của các con sông lớn. Đây là điều kiện thuận lợi cho nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu sản xuất, nhất là sản xuất công nghiệp chế biến.

Về tiềm năng khoáng sản: so với nhiều địa phương khác, Thái Bình có nguồn khoáng sản ít, nhưng cũng có một số loại khoáng sản quý, có giá trị kinh tế cao như khí đốt, nước khoáng ..., nếu được đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu quả sẽ có tác động rất lớn đến việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương. Thái Bình có mỏ khí đốt Tiền Hải đã được khai thác từ năm 1986 với sản lượng khai thác bình quân mỗi năm hàng chục triệu mét khối khí thiên nhiên phục vụ cho sản xuất gốm sứ, thủy tinh, xi măng... Từ giữa năm 2003, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã tiến hành nổ địa chấn lô 103/107 Vịnh Bắc Bộ, trữ lượng ước tính khoảng 7 tỷ m3. Ngày 23/3/2005, Công ty Đầu tư Phát triển Dầu khí, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã thử vỉa thành công tại giếng khoan xã Đông Lâm huyện Tiền Hải ở độ sâu 2.000m. Theo kết quả đánh giá ban đầu, lưu lượng khí khai thác đạt 30.000m3/ ngày đêm kịp thời bổ sung cho nguồn khí đốt phục vụ sản xuất công nghiệp của tỉnh.

Thái Bình có mỏ nước khoáng với trữ lượng tĩnh khoảng 12 triệu m3, ở độ sâu 450m, đã khai thác từ năm 1992, đạt sản lượng 9,5 triệu lít/năm. Đây là nguồn nước khoáng có chất lượng tốt được người tiêu dùng trong và ngoài nước biết đến với thương hiệu nước khoáng Vital, nước khoáng Tiền Hải nổi tiếng.

Thời gian gần đây, tại vùng đất xã Duyên Hải, huyện Hưng Hà đã thăm dò và phát hiện mỏ nước nóng 570C ở độ sâu 50m và nước nóng 720C ở độ sâu 178m hiện đang được đầu tư khai thác phục vụ phát triển du lịch và chữa bệnh cho nhân dân.

Ngoài ra, trong lòng đất của Thái Bình còn có than nâu thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng, được đánh giá có trữ lượng trên 30 tỷ tấn. Tuy nhiên, mỏ than này

nằm ở độ sâu từ 600-1000m nên địa phương chưa đủ điều kiện để khai thác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà.

Thái Bình cũng là tỉnh có nhiều cảnh quan thiên nhiên tương đối thuần khiết mang đặc trưng của miền đồng bằng ven biển, rất thuận lợi cho phát triển du lịch và dịch vụ khác. Khách du lịch có thể đi tham quan các cồn đảo ven biển, nơi đây có nhiều loài chim quý, có cảnh quan thiên nhiên hoang dã của rừng ngập mặn, cồn đảo có bãi tắm thoải cát trắng. Thái Bình là nơi có nhiều di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng quốc gia như di tích Chùa Keo nổi tiếng được xây dựng từ thế kỷ XI triều nhà Lý, đền Tiên La, đền Đồng Bằng, Từ đường Lê Quý Đôn, đền thờ, lăng mộ nơi phát tích của nhà Trần tại huyện Hưng Hà, nhà lưu niệm Bác Hồ tại xã Tân Hòa huyện Vũ Thư ... và có gần 82 lễ hội đặc sắc của quê hương, 16 loại hát múa, trò chơi như: chiếu chèo làng Khuốc, trò múa rối nước làng Nguyễn (Đông Hưng) và làng vườn Bách Thuận (Vũ Thư)... Đó là điều kiện thuận lợi để Thái Bình phát triển ngành du lịch và các loại hình dịch vụ khác.

Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của Thái Bình tương đối thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của tỉnh nói chung và tạo điều kiện tốt cho hệ thống doanh nghiệp, đặc biệt là các DNTN trên địa bàn đầu tư phát triển sản xuất, hướng mạnh vào các lĩnh vực cơ bản như:

Một là, sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp: đồ gốm sứ, thủy tinh, gạch ốp lát, xi măng trắng... dựa vào nguồn nhiên liệu từ khí thiên nhiên...

Hai là, phát triển mạnh ngành khai thác chế biến nông sản, thủy sản. Những ngành này sẽ phát huy được lợi thế của nguồn nguyên liệu lương thực, thực phẩm, cây ăn quả và nguyên liệu thủy sản tương đối phong phú, đa dạng của địa phương. Đặc biệt, những ngành này rất thích hợp để kêu gọi các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài địa phương đầu tư phát triển. Bởi vì quy mô và tính chất ngành sản xuất phù hợp với năng lực sản xuất kinh doanh của DNTN và phù hợp với chủ trương đầu tư của nhà nước và địa phương.

Trong thời gian qua, ở Thái Bình, các DNTN hoạt động trong lĩnh vực này ngày càng tăng và góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Ba là, điều kiện tự nhiên của Thái Bình cho phép phát triển có hiệu quả các loại hình dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ du lịch, nhà hàng, khách sạn, giao thông vận tải các loại, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe...Những loại hình này cũng rất phù hợp với năng lực sản xuất kinh doanh của các DNTN.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình

Trong 20 năm đổi mới, cùng với sự phát triển chung của cả nước, Thái Bình đã đạt được những thành tựu quan trọng, đặc biệt là trong phát triển kinh tế. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi và môi trường đầu tư tốt để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của địa phương cũng như nguồn lực trong và ngoài nước. Những thành tựu về kinh tế cùng với sự ổn định về chính trị, xã hội là chỗ dựa tin cậy để các DNTN yên tâm bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và ổn định xã hội.

2.1.2.1. Về chính trị

Trên cơ sở đường lối, quan điểm, mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước và tình hình thực tế của địa phương, Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Thái Bình đã đề ra mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội những năm đầu thế kỉ XXI. Theo đó chủ trương của tỉnh là phát huy nội lực, tăng cường hợp tác đầu tư, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH, phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao và bền vững, phát triển lực lượng sản xuất gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm gắn với thị trường. Phát triển khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo, coi trọng và phát huy nhân tố con người, chăm lo giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội, giải quyết việc làm, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị xã hội;

xây dựng Đảng, Chính quyền và các đoàn thể nhân dân trong sạch, vững mạnh; thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.

2.1.2.2. Về kinh tế

Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP hàng năm đạt 7,35%. Trong đó nông - lâm nghiệp và thủy sản đạt 4,1%; công nghiệp và xây dựng đạt 16,55% và dịch vụ đạt 8,6%.

GDP năm 2005 tăng gấp 2 lần so với 1995 (tính theo giá cố định năm 1994). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm dần trong GDP qua các năm. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng dần tương ứng. Tính đến 2005, cơ cấu kinh tế của Tỉnh là: nông - lâm nghiệp và thủy sản chiếm 42,27%; công nghiệp và

xây dựng chiếm 22,86%; dịch vụ chiếm 34,87% trong GDP [36, tr.1]. Thu nhập bình quân đầu người được nâng lên một bước đáng kể. Tính theo giá thực tế, thu nhập bình quân đầu người là 3,34 triệu đồng năm 2001, tăng lên 5,7 triệu đồng vào năm 2005. Nhờ sự phát triển kinh tế trên đây, hoạt động kinh tế đối ngoại vì thế cũng thu được những kết quả đáng khích lệ. Tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001 - 2005 tăng bình quân 21,5%/năm. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt 95 triệu USD tăng 26,6% so với kế hoạch (kế hoạch là 75 triệu USD) [36, tr.4]. Tổng sản lượng lương thực đạt 1 triệu tấn/ năm trong đó khoảng 30 vạn tấn lương thực, hàng hoá là xuất khẩu.

2.1.2.3. Về xã hội

Chính sách giải quyết việc làm cho người lao động của Tỉnh không ngừng được quan tâm và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Năm 2001, số lao động được giải quyết việc làm mới là 18 nghìn người. Năm 2005, số liệu tương ứng là 25 nghìn người. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực. Tính đến năm 2005, cơ cấu lao động của tỉnh là: lao động trong lĩnh vực nông - lâm - thủy sản chiếm 68%; lao động khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 19%; lao động khu vực dịch vụ chiếm 13%. Tỷ lệ hộ nghèo đói giảm dần qua các năm. Năm 2001, số hộ nghèo là 8,8%, năm 2005 giảm xuống còn 5%

[30, tr.2].

2.1.2.4. Về dân số

Nhân tố con người là yếu tố quyết định cho phát triển bền vững ở địa phương. Đến nay dân số Thái Bình ước khoảng 1.851.000 người. Trong đó dân số nông thôn chiếm 94,2%, thành thị chiếm 5,8%; mật độ dân số là 1.183 người/1km2. Bình quân mỗi hộ gia đình có 3,75 người. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên hiện nay là 1,02%/năm. Số người trong độ tuổi lao động là 1.073.000 người. Trong đó lao động trong khu vực nông lâm nghiệp chiếm 74,3%, công nghiệp và xây dựng chiếm 17%, khu vực dịch vụ, thương mại chiếm 8,7% [30, tr.2].

Có thể khẳng định rằng trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai, lực lượng lao động Thái Bình là nhân tố hàng đầu quyết định công cuộc phát triển chung của địa phư- ơng. Đồng thời lực lượng lao động đó là nhân tố tác động trực tiếp đến sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp của tỉnh, trong đó có các DNTN. Ngược lại, phát triển mạnh hệ thống doanh nghiệp, đặc biệt là DNTN sẽ có tác dụng rất lớn trong việc giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, thực hiện tốt các vấn đề về xã hội, đảm bảo sự phát triển

nhanh, bền vững.

2.1.2.5. Về văn hóa - giáo dục

Người dân Thái Bình vốn có truyền thống cách mạng và truyền thống văn hoá lâu đời, lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi. Trong thời kỳ chiến tranh, Thái Bình là quê hương đã đóng góp sức người, sức của rất lớn cho công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Trong thời kỳ xây dựng đất nước, đặc biệt là thời kỳ đổi mới, người dân Thái Bình tiếp tục kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp của dân tộc, quê h- ương, đang nỗ lực phấn đấu phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Trình độ dân trí của tỉnh không ngừng được nâng cao. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 23,5% tổng lực lượng lao động toàn tỉnh. Trong đó, công nhân kỹ thuật và nghiệp vụ chiếm 13,5%; trung cấp chiếm 5,5%, người có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học chiếm 4,5%. Mỗi năm Thái Bình có khoảng 19.000 học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông [51]. Đây là lực lượng lao động trẻ, có trình độ văn hoá cơ bản, chưa có điều kiện học lên bậc học cao hơn. Lực lượng này có thể được đào tạo ở các trường dạy nghề trong tỉnh hoặc được đào tạo tại chỗ ở các đơn vị sản xuất kinh doanh sẽ là nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có các DNTN.

Những thành tựu và đặc điểm kinh tế - xã hội trên đây là điều kiện thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp, trong đó có DNTN ở Thái Bình đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, để các DNTN phát triển đúng hướng, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương thì các cấp chính quyền địa phương cần phải có chính sách ưu tiên mạnh mẽ các DNTN hoạt động sản xuất trực tiếp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân hoạt động sản xuất chế biến nông - lâm - thủy sản; sản xuất vật liệu xây dựng. Khuyến khích DNTN liên kết với các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác trong địa phương và trong vùng đầu tư sản xuất giải quyết việc làm, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

Một phần của tài liệu LUẬN văn doanh nghiệp tư nhân ở thái bình hiện nay (Trang 29 - 34)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(91 trang)