3.2. Giải pháp cơ bản vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác
3.2.2. Giải pháp về chính sách đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, giáo dục đạo đức, nghề nghiệp cho người lao động
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của DN trong bối cảnh mới hiện nay, người lao động cần phải được trang bị những phẩm chất và kiến thức nhất định thông qua giáo dục, đào tạo. Phải thấy rằng, một DN sẽ làm ăn thất bại nếu không thực hiện tốt chiến lược đào tạo nguồn nhân lực. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết khi mà yêu cầu cạnh tranh của các DN gắn với hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra cấp bách. Vì vậy, phải quan tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho các DN, nhất là về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, đạo đức nghề nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước hiện nay, nếu người lao động không hội đủ những điều kiện cần thiết về chuyên môn, nghiệp vụ thì sẽ khó được thị trường chấp nhân, nói cách khác, tình trạng thất nghiệp là không tránh khỏi. Do đó, DN cần phải tạo điều kiện để người lao động học tập nâng cao trình độ
về mọi mặt. Có như vậy thì quyền sở hữu cá nhân về SLĐ của họ mới được thực hiện trên thực tế. Để mối quan hệ lao động giữa người chủ sở hữu TLSX và người sở hữu SLĐ tiến tới sự bình đẳng, cùng có lợi thì người lao động phải có những phẩm chất thoả mãn một nhu cầu nào đó của người sử dụng lao động. Phẩm chất này càng hiếm, càng cần thiết, càng có giá trị sử dụng cao thì người sở hữu SLĐ càng có lợi trong quan hệ trao đổi. Các phẩm chất đó chính là thái độ, năng lực, đạo đức nghề nghiệp của người lao động.
Trên TTSLĐ hiện nay, những người sử dụng lao động cần những người lao động có chất lượng cao(cả phẩm chất và năng lực). Vì vậy, ngoài việc "chịu trách nhiệm " đối với bản thân mình, tức mỗi người lao động phải tự phấn đấu hoàn thiện mình, để thực hiện được sở hữu cá nhân của mình về SLĐ thì Đảng, Nhà nước cũng cần phải có những cơ chế, chính sách, để hỗ trợ trong công tác giáo dục, đào tạo.
Qua khảo sát ở một số DNNN, Công ty CP và một số DN tư nhân trong tỉnh cho thấy, trình độ, năng lực của người lao động còn rất thấp, do đó để đáp ứng yêu cầu cao về nguồn nhân lực cho các DN hiện nay; cùng với các DN, tỉnh cần phải quan tâm đến công tác giáo dục, đào tạo, bằng cách sử mọi hình thức đào tạo và mọi nguồn vốn đầu tư để tăng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ 24,4 % hiện nay lên khoảng 45,7 % năm 2010 (Theo chương trình hành động của UBND tỉnh đến năm 2010). Tăng tỷ lệ cán bộ khoa học, công nghệ có trình độ đại học và trên đại học trong các lĩnh vực, ngành nghề phục vụ cho các mục tiêu kinh tế trọng điểm của tỉnh (sản xuất vật liệu xây dựng; nuôi trồng thuỷ sản; cây công nghiệp ngắn ngày; du lịch, dịch vụ...). Đồng thời nhanh chóng hình thành và phát triển đội ngũ các nhà quản lý có kiến thức tổng hợp, có nghệ thuật kinh doanh, nhanh nhạy nắm bắt các diễn biến của thị trường, xử lý kịp thời các thông tin để điều hành DN.
Muốn vậy, phải quan tâm đến vấn đề đào tạo chuyên môn kỹ thuật, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cả về nội dung lẫn phương thức đào tạo.
Cần phải có sự đổi mới một cách căn bản trong nhận thức của người người lao động trong các DN. Nếu không sẽ không đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao
của SXKD trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Và muốn có việc làm, tăng thu nhập, muốn khỏi bị đào thải thì người lao động trong các DN phải có nhận thức đúng và ý thức được về việc học tập của mình.
Vấn đề đặt ra là học tập như thế nào và học tập cái gì ? Để trả lời câu hỏi này thì ngoài việc người lao động cần được trang bị trình độ văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật phù hợp với năng lực bản thân, thì họ cũng cần được trang bị thêm một vốn kiến thức nhất định về tin học, ngoại ngữ, về giao tiếp để có thể tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại; tiếp cận và cải tiến phương pháp quản lý tiên tiến phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát rtiển của thế giới.
Hiện nay, về lĩnh vực đào tạo nghề ở tỉnh Quảng Bình cần thực hiện phương châm: " Nhà nước và nhân dân cùng làm ". Trong điều kiện cụ thể, tỉnh có thể góp phần đào tạo trợ giúp các DN thông qua hệ thống dạy nghề với những hình thức, quy mô khác nhau. Trong sự trợ giúp này kinh phí tỉnh chiếm một phần nhất định, phần còn lại DN và người học phải đóng góp thêm, tuỳ theo lĩnh vực, ngành nghề đào tạo và thời gian đào tạo.
Các DN cần có tư vấn chương trình với hệ thống đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề trong các trường, các cơ sở dạy nghề của tỉnh, đồng thời nội dung đào tạo của các trường, các cơ sở ấy cần căn cứ vào nhu cầu thực tế của các DN cũng như gắn liền với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đổi mới trang thiết bị kỹ thuật đáp ứng xu thế phát triển hiện nay. Bên cạnh đó, cần hoạch định cho mình một chương trình đào tạo phù hợp trong mối quan hệ gắn kết các trường trong nước và trong tỉnh sát với phương hướng hoạt động và phát triển của DN, theo phương thức các trường đào tạo nguồn nhân lực thực hiện theo đơn đặt hàng của các DN. Cách thức đào tạo này thực tế cho thấy có hiệu quả cao hơn so với việc tuyển nhân viên thông qua các trung tâm dịch vụ việc làm hoặc trực tiếp tuyển dụng bằng phương thức phỏng vấn.
ở góc độ quản lý nhà nước, cần thiết phải tạo mối liên kết giưã các trường, các cơ sở đào tạo nghề trong tỉnh với các DN. Các trường, các cơ sở đào tạo và nơi đào tạo, bồi dưỡng cung cấp lực lượng lao động theo yêu cầu của các DN. Trong quá trình học tập cần tạo điều kiện cho học viên đi thực tập ngay tại các DN để kết hợp học với hành và nêú học tốt sau này họ sẽ được nhận vào làm việc ở đó. ở những DN có khả năng về tài chính nên áp dụng phương thức cử cán bộ KHKT đi đào tạo và tu nghiệp ở nước ngoài. Các DN ở Quảng Bình về cơ bản không có điều kiện này, một phần là do thiếu kinh phí, một phần do nguồn cán bộ kỹ thuật quá mỏng nên nhiều DN không thể cử người đi học tập ở nước ngoài được. Tuy nhiên, trong thực tế đã có một vài DN đăng ký tài trợ một phần kinh phí để cho những sinh viên con em gia đình có khả năng tài chính muốn vào làm việc ở Công ty của mình đi du học ở nước ngoài thì DN ký thoả ước lao động và dành những ưu đãi nhất định để tiếp nhận họ khi trở về nước. (Đó là các Công ty gốm sứ Cosevco; Công ty cổ phần Bia rượu; Công ty Xi măng Cosevco Sông Gianh; Công ty vận tải đa phương thức 2). Bên cạnh đó, tỉnh cũng cần có chính sách khuyến khích, có biện pháp hỗ trợ nguồn nhân lực cho các DN, nhất là đối với lực lượng lao động trẻ đi du học ở nước ngoài. Và để thu hút và sử dụng nhân tài thì cần phải có nhiều giải pháp tổng hợp để thực hiện, như huy động sức mạnh của toàn dân, của các nhà hảo tâm, thành lập các quỹ tài năng, các quỹ khuyến học theo phương thức đóng góp.
Hàng năm, các DN cần tổ chức các cuộc thi tay nghề để tuyển chọn những người lao động có trình độ chuyên môn cao, nắm vững kỹ năng, kỹ xảo trong công việc. Qua đó có những hình thức ưu đãi, khuyến khích thoả đáng. Qua các cuộc thi này chúng ta sẽ phát hiện được các nguồn lực lao động chất lượng cao, lựa chọn và đào tạo được những chuyên gia đầu đàn, đồng thời thúc đẩy và khuyến khích người lao động rèn luyện tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Ngoài các biện pháp trên, tỉnh và các DN có thể thông qua hệ thống đào tạo nghề và hệ thống trung tâm dịch vụ trong và ngoài tỉnh để bồi dưỡng nâng cao tay nghề nhằm tuyển chọn và thu hút nguồn lực lao động ở các nơi để bổ sung cho đơn vị của mình.
Quảng Bình hiện có 6 trường và trung tâm đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp cho các DN. Tuy nhiên, để việc đào tạo có có sự bền vững, nguồn nhân lực của các DN phải được đào tạo từ học sinh phổ thông. Kiến thức phổ thông vững là cơ sở để đào tạo nghề có hiệu quả. Điều 28 Luật giáo dục ghi rõ: " Giáo dục nghề nghiệp gồm: trung học chuyên nghiệp được thực hiện từ 3 đến 4 năm đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ một đến hai năm đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông. Dạy nghề dành cho người có trình độ học vấn và sức khoẻ phù hợp với nghề cần học; được thực hiện dưới một năm đối với các chương trình dạy nghề ngắn hạn, từ một đến 2 năm đối với các chương trình dạy nghề dài hạn ". Luật giáo dục cũng có quy định các hình thức của việc dạy nghề, chẳng hạn như các trường Trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề, TT dạy nghề, lớp dạy nghề... (gọi chung là cơ sở dạy nghề). Các cơ sở dạy nghề có thể được tổ chức độc lập hoặc gắn với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Các cơ sở dạy nghề cần gắn kết chặt chẽ hơn với các DN để đào tạo chuyên sâu, hạn chế mở nhiều lớp, dạy quá nhiều nghề trong một cơ sở. Để việc đào tạo nghề trong tỉnh có chất lượng, hiệu quả cao, các cơ sở dạy nghề phải thực hiện đúng các tiêu chuẩn tuyển sinh, đồng thời bảo đảm nguồn tuyển sinh hàng năm phù hợp với ngành, nghề đào tạo và không đào tạo quá nhiều nghề trong một cơ sở khi chưa đủ điều kiện. Để các cơ sở dạy nghề trong tỉnh hoạt động có có hiệu quả cao, các cơ sở phải bảo đảm nguồn tuyển sinh hàng năm. Muốn vậy, phải có kế hoạch phân luồng học sinh theo từng cấp học, bậc học. Sự phân luồng từ bậc trung học phổ thông và sự liên thông giữa các trường THPT và THCN - dạy nghề sẽ giúp khai thác tiềm năng này có hiệu quả hơn.
Một vấn đề nữa cần quan tâm là, các cơ sở dạy nghề trong tỉnh cần sớm đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp dạy nghề theo hướng ứng dụng công nghệ mới, đảm bảo chương trình giảng dạy phù hợp với trình độ đào tạo và yêu cầu của thực tế, kiên quyết loại bỏ những giáo trình, chương trình, nội dung đã lạc hậu không đảm bảo tính khoa học và thiếu sự thống nhất, đồng bộ. Và, để chuyển tải được nội dung, chương trình đáp ứng yêu cầu của người học cần phải có đội ngũ giáo viên giỏi, có trình độ chuyên môn cao, phương pháp giảng dạy tốt. Do đó, đội
ngũ giáo viên trong các cơ sở dạy nghề của tỉnh cần được bồi dưỡng thường xuyên nhằm từng bước chuẩn hoá về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như về khả năng, trình độ sư phạm. Ngoài ra, trong điều kiện hiện nay, giáo viên các cơ sở dạy nghề phải sử dụng thành thạo phương tiện dạy nghề hiện đại để có khả năng thâm nhập được vào lĩnh vực tự động hoá - chương trình số.
Tỉnh cần có chính sách khuyến khích đối với người dạy nghề cũng như người học nghề. Đối với người dạy nghề cần phải có trợ cấp nghề độc hại, có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ sư phạm, bồi dưỡng kỹ năng dạy nghề ở các trường đại học chuyên ngành trong nước; có chế độ khuyến khích đối với các cán bộ giáo viên có nhiều thành tích trong giảng dạy, nghiên cứu, đồng thời hỗ trợ kinh phí để giáo viên mua sắm phương tiện phục vụ công tác giảng dạy. Đối với những người học giỏi cần cấp học bổng, khen thưởng thành tích trong học tập và tạo mọi điều kiện giúp đỡ về vật chất, động viên về tinh thần và ưu tiên trong tiếp nhận, bố trí, sắp xếp công tác.
Theo chương trình cải cách hành chính quốc gia giai đoạn 2005-2010 các cơ sở dạy nghề cần đổi mới cơ chế quản lý đào tạo nghề, tránh hiện tượng trùng lắp, chồng chéo, không phân định cụ thể trách nhiệm, lĩnh vực quản lý, đào tạo. Một trong những trở ngại hiện nay ở hệ thống các cơ sở dạy nghề của tỉnh là đầu mối quản lý trường dạy nghề quá phân tán, bất hợp lý và thiếu một cơ chế quản lý thống nhất, đồng bộ giữa các cấp, các ngành. Chẳng hạn trường Trung học Công - Nông nghiệp và trường Trung cấp kinh tế chịu sự quản lý của cả Sở Giáo dục - Đào tạo, nhưng Sở Lao động - Thương binh & Xã hội làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về đào tạo nghề lại không có liên quan gì cả... Hàng năm các cơ sở dạy nghề trong tỉnh nhận cùng một lúc chỉ tiêu của ba cơ quan: Sở Kế hoạch & Đầu tư giao chỉ tiêu về đào tạo; SởTài chính giao chỉ tiêu kinh phí; Sở Giáo dục - Đào tạo giao chỉ tiêu về ngành, nghề đào tạo, chỉ tiêu bằng cấp, chứng chỉ nghề. Vì vậy, gây khó khăn, lúng túng cho các cơ sở dạy nghề, nhất là trong việc xây dựng kế hoạch, chỉ tiêu đào tạo.
Mặc dù Sở Giáo dục - Đào tạo đã thành lập phòng Quản lý giáo dục chuyên nghiệp
thường xuyên nhưng phòng này chưa phát huy được chức năng, nhiệm vụ của mình bởi do còn vướng mắc ở cơ chế quản lý.
Trong những năm tới, tỉnh cần quan tâm tăng cường đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động cho các cơ sở dạy nghề để các cơ sở này có điều kiện nâng cấp cơ sở vật chất, mở rộng quy mô đào tạo. Mặt khác, các cơ sở dạy nghề cần được đầu tư trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật để đào tạo một số chuyên ngành hẹp, sâu để có thể đào tạo ra những công nhân có trình độ tay nghề cao. Bên cạnh đó cũng cần phải được đào tạo thêm một số nghề phụ khác để hỗ trợ cho nghề chính, tạo điều kiện phát huy tay nghề của người công nhân trong SXKD và trong cuộc sống(những lúc nhàn rỗi họ có thể làm thêm nghề phụ để tăng thu nhập cho gia đình). Để việc đào tạo nghề có hiệu quả, các ngành, các cấp cũng như các DN nên chủ động mở rộng quan hệ hợp tác với các DN lớn trong nước và ngoài nước để đào tạo một số ngành nghề chuyên môn, kỹ thuật có tay nghề cao phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu, kinh tế, với các chương trình kinh tế trọng điểm của tỉnh. Mặt khác, tỉnh cần khuyến khích các doanh nghiệp phát triển loại hình đào tạo CNKT bậc cao theo đơn đặt hàng, tạo mối quan hệ gắn kết giữa các cơ sở dạy nghề với các DN trong tỉnh, qua đó kết hợp giữa đào tạo nghề với giải quyết việc làm cho người lao động.
Nguồn nhân lực của các DN là một trong những yếu tố đảm bảo cho sự phát triển CNH,HĐH, cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nguồn nhân lực đó phải là những con người có đức, có tài, vừa hồng, vừa chuyên, thiếu một trong hai yếu tố đó thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Tài là chuyên môn, văn hoá, đức là chính trị. Trong mối quan hệ đó, đức là gốc "
Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng "[32, tr.329]. Vì vậy, trong công tác giáo dục- đào tạo cần quan tâm đào tạo cả chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật và cả lý luận chính trị, trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với người lao động. Tăng cường chất lượng giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc, truyền thống cách mạng cho công nhân. Hình