Nhóm giải pháp góp phần giảm thiểu sự tha hoá lao động trong các doanh nghiệp

Một phần của tài liệu LUẬN văn vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của c mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh (Trang 99 - 106)

3.2. Giải pháp cơ bản vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác

3.2.5. Nhóm giải pháp góp phần giảm thiểu sự tha hoá lao động trong các doanh nghiệp

- Về thực hiện chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu và cổ phần hoá các DNNN.

Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lê-nin, để giải phóng người lao động khỏi bị tha hoá lao động cần xoá bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ sở hữu công cộng về TLSX. Tuy nhiên, quy luật chuyển hoá của sở hữu về TLSX là phải thông qua nhiều hình thức sở hữu, gắn với nhiều hình thức kinh tế trung gian, quá độ khác nhau.

Đối với những tỉnh nghèo, LLSX chưa phát triển, trong các hình thức sở hữu về TLSX cần chú ý quan tâm hình thức sở hữu tư nhân. Bởi lẽ, với điều kiện cụ thể đó sở hữu tư nhân, nhất là sở hữu cá thể sẽ giúp cho người lao động xoá đói, giảm nghèo nhanh nhất. Gắn với hình thức sở hữu tư nhân, cá thể là hình thức kinh tế của

các tiểu chủ. Trong các hình thức kinh tế này, người lao động tự chủ sản xuất, được chủ động phân phối sản phẩm mình làm ra, do đó họ có ý thức học hỏi, trau dồi kinh nghiệm để làm việc tốt hơn, gắn bó với sản xuất và quan tâm đến kết quả lao động của mình hơn. Khi người lao động tích luỹ được kinh nghiệm, vốn liếng thì họ có thể lập trang trại, lập công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh hoặc tham gia công ty CP. Sự ra đời các loại hình DN khác nhau sẽ giúp tạo ra nhiều việc làm, nhờ đó quyền sở hữu cá nhân về sức lao động sẽ được thực hiện.

Với quan hệ tương thân, tương ái ngày càng phát triển này, người lao động trong các DN sẽ tự hoàn thiện mình về phẩm chất và năng lực, kiến thức và đây là nhân tố quyết định sự thành công của các DN trong sản xuất kinh doanh.

Cùng với việc giúp cho người lao động thực hiện quyền sở hữu cá nhân về sức lao động, tỉnh cần quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện cho người lao động được sở hữu một phần TLSX trong các DN thông qua cổ phần hoá các DNNN trên địa bàn.

Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình có 26 DNNN, nhưng chỉ có 6 DN làm ăn có lãi. Các DNNN sau khi CP hoá đều làm ăn có hiệu quả. Vì vậy, CP hoá các DNNN hiện nay là một đòi hỏi cấp bách để xây dựng và củng cố các DN ngày càng mạnh lên, SXKD có hiệu quả hơn. Theo luật DN có hiệu lực từ ngày 1/7/2006 và tinh thần của Nghị quyết Đại hội lần tứ 14 của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình thì đến năm 2010 tỉnh cần hoàn thành tiến trình CP hoá hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu, quản lý các DNNN còn lại trên địa bàn.

CP hoá DNNN là tạo điều kiện cho người lao động trở thành chủ sở hữu một phần TLSX trong các DN đó thông qua việc mua cổ phiếu. Với hình thức chuyển đổi này sẽ góp phần đưa người lao động và người sử dụng lao động xích lại gần nhau hơn, đồng thời giúp cho người lao động nhận lại một phần lao động thặng dư mà họ đã cống hiến cho xã hội, cho DN. Và cũng chính điều này sẽ tạo điều kiện cho người lao động có ý thức nâng cao tay nghề, cũng như quan tâm hơn đối với hoạt động SXKD của DN.

Để đẩy nhanh quá trình CP hoá các DNNN còn lại, tỉnh cần kết hợp tốt các biện pháp hành chính, kinh tế, tổ chức phù hợp để thực hiện đúng kế hoạch, tiến độ

đã đề ra. Trong số các DNNN chưa CP hoá còn lại ở Quảng Bình, ngoài những DN có đủ điều kiện CP hoá, thì phải đẩy nhanh tiến độ CP hoá, những DN làm ăn thua lỗ sẽ thực hiện các hình thức chuyển đổi khác như giao khoán, bán, hoặc cho thuê.

Sau khi CP hoá, tỉnh cũng cần có các chính sách cụ thể về hệ thống kích thích vật chất trong DN nhằm thúc đẩy DN bảo đảm sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, phát huy tính năng động, sáng tạo của nguồn nhân lực. Nói cách khác là phải quan tâm đến hậu CP hoá, nếu không DN sẽ gặp khó khăn trong SXKD, ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động.

- Về chính trị, xã hội:

a) Nâng cao thể lực cho nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp.

Trước hết, cần tiến hành điều tra cơ bản tình hình sức khoẻ của người lao động, trên cơ sở đó xây dựng hệ thông tin về y tế, sức khoẻ thể lực nguồn nhân lực trong các DN một cách toàn diện. Chủ động dự báo và có phương án phòng và chống các bệnh nguy hiểm và tai nạn lao động, bệnh tinh thần, bệnh xã hội... Đổi mới công tác tổ chức, quản lý, chăm sóc sức khoẻ công nhân theo hướng xã hội hoá.

Liên đoàn Lao động tỉnh và Sở Lao động -Thương binh và Xã hội cùng với các cơ quan chức năng kiểm tra việc thực hiện các luật và văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người lao động. Quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của công nhân cả về thể lực, trí lực và cả về văn hoá, xây dựng mô hình người lao động cường tráng về thể lực, phong phú về văn hoá tinh thần. Các DN cần phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban DS,GĐ &TE để củng cố và nâng cao chất lượng chương trình DS-KHHGĐ. Từng bước thực hiện cơ chế, chính sách DS-GĐ-TE. Tuyên truyền và tổ chức thực hiện Pháp lệnh dân số và Nghị định thực hiện Pháp lệnh dân số của Chính phủ. Các DN có số lượng công nhân đông, doanh thu lớn cần đầu tư kinh phí thành lập phòng khám, chữa bệnh trong Công ty. Đẩy mạnh phong trào TDTT, thực hiện vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc, rèn luyện sức khoẻ trong các DN. Xã hội hoá công tác chăm sóc sức khoẻ công nhân tại các DN.

Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện ở trình độ, sức khoẻ, năng lực chuyên

môn. Chăm sóc sức khoẻ, nâng cao thể lực cho công nhân trong các DN phải được quan tâm đầu tư, tổ chức thực hiện đồng bộ để đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trong các DN ở Quảng Bình hiện nay.

b) Phát triển đời sống văn hoá tinh thần, xây dựng văn hoá công ty, văn hoá DN.

Quán triệt quan điểm của Đảng: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đâỷ sự phát triển kinh tế- xã hội.

Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ đạo đức, thể chất năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [18].

Người lao động trong thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta hiện nay phải là con người phát triển toàn diện, có đời sống vật chất, và đời sống tinh thần ngày càng cao. Các DN cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động văn hoá, văn nghệ, TDTT để công nhân tham gia rèn luyện thể chất, nâng cao thể lực, đảm bảo sức khoả để làm việc, vừa tạo được phong trào thi đua trong công nhân lao động, đây là một trong những cơ sở để người công nhân phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần.

Đổi mới và mở rộng các hoạt động văn hoá thông tin, đẩy mạnh phong trào thi đua của công nhân trong các DN xây dựng đời sống văn hoá mới ở cơ sở. Xây dựng các phong trào TDTT quần chúng, chú trọng xây dựng các câu lạc bộ văn hoá, thể thao trong các DN để công nhân tham gia luyện tập. Trong xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức, người lao động cũng phải tự mình vươn lên để tiếp cận với những thành tựu khoa học- công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, với những công nghệ thông tin hiện đại, trong đó có thông tin kinh tế, thông tin thị trường...

vận dụng vào hoạt SXKD của DN mình. Vì vậy các DN phải thường xuyên tổ chức

đánh giá, khen thưởng các đơn vị và cá nhân có nhiều các sáng kiến có giá trị bằng những hình thức phù hợp, như tiền thưởng hoặc tổ chức các đợt tham quan du lịch để công nhân có điều kiện tìm hiểu các di sản văn hoá, các danh lam thắng cảnh, các cơ sở kinh tế, văn hoá của tỉnh, của đất nước.

Phát triển đời sống văn hoá tinh thần là cơ sở để xây dựng văn hoá công ty, văn hoá DN. Đây là việc làm cần thiết đối với mỗi DN để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong thực tế, có rất nhiều công ty trở nên có uy tín vì đã xây dựng được cho mình một mô hình văn hoá DN phù hợp. Văn hoá DN nhiều khi trở thành một tài sản vô hình của DN và nó làm tăng khả năng cạnh tranh cũng như khả năng tồn tại và phát triển của DN. Nói đến văn hoá DN là nói đến mối quan hệ giữa các thành viên trong cùng một công ty, là nói đến phong cách lãnh đạo, phong cách ứng xử của người lao động. Văn hoá DN luôn gắn với thương hiệu và uy tín DN. Xây dựng văn hoá DN là xây dựng DN như một gia đình thứ hai của mỗi thành viên, mỗi người phải có tinh thần cộng đồng trách nhiệm, đồng cam cộng khổ, gắn bó với nhau bằng tinh thần cộng tác và tinh thần đồng đội tương thân tương ái. Văn hoá DN thể hiện ở thái độ và hành vi của cán bộ, nhân viên trong DN đối với công việc được giao, như ý thức tổ chức kỷ luật, việc chấp hành nội quy, quy chế, quan hệ trong công tác giũa các tổ chức, nhóm và giữa các cá nhân trong và ngoài DN, đấu tranh tự phê bình và phê bình, tinh thần làm chủ, đoàn kết xây dựng nội bộ tốt... Tất cả điều đó đều có ảnh hưởng đến suất, chất lượng và hiệu quả SXKD của DN. Do đó ở bất cứ một DN nào nếu không xây dựng được văn hoá DN, không giải quyết được vấn đề nội bộ, trong đơn vị luôn có mâu thuẫn, kiện cáo nhau thì không thể xây dựng được nguồn lực lao động của đơn vị mình vững mạnh được.

c) Xây dựng các phong trào thi đua trong các doanh nghiệp

Thi đua là một động lực thúc đẩy mọi người lao động phấn đấu nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả SXKD. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: " Thi đua là yêu nước, muốn yêu nước thì phải thi đua". Nếu không có thi đua thì không có sức sống cho phong trào. Và không có phong trào thì sẽ không có sự

chuyển đổi, chuyển biến tích cực trong các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế.

Với mỗi DN dù điều kiện khó khăn thế nào nhưng phong trào quần chúng, phong trào thi đua và hợp tác vẫn là động lực của sự phát triển, là cơ sở gắn bó người lao động với tư liệu sản xuất, với tập thể lao động, với sự thịnh suy của DN. Trong các DN, tổ chức các phong trào thi đua thực chất là tổ chức các hoạt động kinh tế góp phần phát triển sản xuất, điều tiết hành vi người lao động. Năng suất, chất lượng, hiệu quả SXKD và tăng thu nhập, cải thiện đời sống người lao động là mục tiêu của mọi cuộc vận động thi đua. Lợi ích kinh tế cá nhân là động lực thi đua, nhưng lợi ích chung giữ vai trò điều tiết và là mục tiêu cao nhất của phong trào thi đua. Điều này có nghĩa là thi đua không nên áp đặt từ trên xuống theo một khuôn mẫu chung mà phải xuất phát từ cuộc sống, từ thực tiễn SXKD của từng DN. Các cơ quan chức năng có liên quan như Liên đoàn Lao động tỉnh, Sở Lao động- Thương binh và Xã hội... cần tăng cường chỉ đạo các DN có những biện pháp phát động, duy trì, đẩy mạnh phong trào thi đua trong SXKD, thực hành tiết kiệm, nâng cao hiệu quả công tác. Đẩy mạnh phong trào lao động sáng tạo, nêu gương điển hình tiên tiến, gương người tốt việc tốt gắn với xây dựng con người mới, có phẩm chất và năng lực, hăng say trong lao động, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra. Qua các phong trào thi đua sẽ xuất hiện nhiều lao động giỏi, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, đổi mới phong cách và lề lối làm việc, tiết kiệm được thời gian lao động, rút ngắn quy trình sản xuất... Nhờ có phong trào thi đua mà người công nhân phát huy được tính chủ động, sáng tạo, gắn bó hơn với hoạt động lao động sản xuất của cá nhân và của tập thể. tạo được khí thế sôi nổi, phấn khởi, đoàn kết hợp tác trong lao động.

Đối với các DN, phong trào thi đua có tác dụng rất lớn đến việc hoàn thành các nhiệm vụ, kế hoạch SXKD, nhất là vào những đợt cao điểm, những lúc giao nộp sản phẩm theo hợp đồng kinh tế với khách hàng bên ngoài. Do đó, doanh nghiệp cần chủ động xây dựng và phát động các phong trào thi đua một cách sâu rộng trong công nhân, vì sự phát triển của DN và vì lợi ích của người lao động

d) Thực hiện đầy đủ chế độ bảo hiểm cho người lao động.

Qua khảo sát điều tra của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Bình cho thấy, đến năm 2005, vẫn còn 12,5% DN thuộc mọi thành phần kinh tế chưa thực hiện chế độ bảo hiểm, hoặc thực hiện chế độ bảo hiểm không đầy đủ cho người lao động. Đây là một khuyết điểm lớn của DN; vi phạm quyền và lợi ích của người lao động, vi phạm Luật Bảo hiểm xã hội. Chế độ bảo hiểm của người công nhân được thực hiện đầy đủ sẽ là nhân tố gắn bó họ đối với DN. Người lao động sẽ yên tâm với công việc của mình khi biết tương lai về sau sẽ được đảm bảo. Vì thế, người sử dụng lao động phải thực hiện đầy đủ chế độ bảo hiểm cho người lao động, không vì lợi ích của DN hoặc khó khăn trong SXKD mà làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, những người chủ yếu sống bằng lương, bằng chính sức lao động của mình trong DN. Có như vậy, mới làm cho người công nhân yên tâm, tin tưởng vào chế độ, chính sách mà DN đã thực hiện đối với họ để từ đó họ làm việc có trách nhiệm hơn, coi DN thực sự là gia đình thứ hai của họ. Tuy nhiên, bên cạnh việc hoàn thiện và thực hiện các chế độ bảo hiểm theo đúng luật hiện hành, thì đồng thời cũng cần giáo dục ý thức công dân, lý tưởng, hoài bão cho người lao động thông qua các hoạt động của các tổ chức công đoàn để tránh sự ỷ lại vào hệ thống bảo hiểm của người lao động. Đó cũng là trách nhiệm nhiệm của người lao động trong DN nhằm gắn trách nhiệm với quyền lợi, lợi ích cá nhân của người lao động với lợi ích chung của doanh nghiệp.

Một phần của tài liệu LUẬN văn vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của c mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh (Trang 99 - 106)

Tải bản đầy đủ (PDF)

(111 trang)