Trong quản lý chất thải, vấn đề tài chính là một trong những vấn đề cơ
bản nâng cao hiệu quả quản lý hoặc giảm sút năng lực quản lý. Vì động cơ tài chính làm cho các đối t−ợng liên quan đến chất thải sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình, đặc biệt là trong bối cảnh vận hành của cơ chế kinh tế thị trường. Xem xét từ cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động của quản lý chất thải cho thấy những vấn đề tài chính liên quan đến quản lý chất thải bao gồm những nội dung cơ bản sau ®©y.
7.1.1. Trợ cấp cho quản lý chất thải
Trợ cấp cho quản lý chất thải là nguồn tài chính đ−ợc cấp bởi chính quyền
địa phương, hay một tổ chức nào đó cho đối tượng thực hiện quản lý chất thải từ thu gom đến vận chuyển và xử lý chất thải.
Hình thức trợ cấp có thể là toàn phần hay một phần. Tr−ớc đây ở các n−ớc có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hình thức trợ cấp th−ờng là toàn phần.
Trong bối cảnh của nền kinh tế chuyển đổi hay kinh tế thị trường hình thức này tỏ ra không hiệu quả bởi lẽ không có tác dụng thay đổi hafnh vi của người tạo ra chất thải, mặt khác đối với đối t−ợng thực hiện quản lý không có tác dụng kích thích phát huy tính chủ động sáng tạo và hướng tới đạt hiệu quả tốt hơn trong việc thực hiện quản lý chất thải.
Đối với hình thức trợ cấp một phần đ−ợc thực hiện trên cơ sở lấy thu bù chi. Về nguyên tắc các đối t−ợng thực hiện quản lý chất thải bù đắp đủ những chi phí hoạt động của mình bao gồm cả chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Nguồn tài chính bù đắp đó thường được thu thông qua phí hay thuế đối với đối tượng tạo ra chất thải. Thông thường đối với các nước đang phát triển, mức sống người dân còn thấp, trình độ nhận thức chưa cao nguồn thu này không đủ so với chi phí bỏ ra để thực hiện quản lý chất thải, phần thiếu hụt này chính là trợ cấp của chính quyền địa phương. Ví dụ ở phần lớn các thành phố của Việt Nam hiện nay cân đối tài chính giữa nguồn thu và chi bỏ ra cho quản lý chất thải rắn đô
thị (Municipal Solid Waste), chính quyền thành phố th−ờng phải trợ cấp thêm 70%. Nguồn thu phí từ MSW chỉ đáp ứng đ−ợc 30% so với chi phí bỏ ra.
Trong nhiều tr−ờng hợp, trợ cấp một phần cũng có thể diễn ra d−ới hình thức viện trợ không hoàn lại nhằm tăng năng lực cho quản lý chất thải. Hình thức này th−ờng không phổ biến và chỉ ở quy mô nhỏ. Ví dụ tổ chức Mỹ - á dưới hình thức này đã trang bị cho một số thôn ở làng nghề đồ gỗ và phun sơn ở Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội các xe đẩy đựng rác. Với sự trang bị này đã tăng năng lực cho thu gom và vận chuyển rác về khu vực tập kết trong làng.
7.1.2. Cho vay với lãi suất −u đãi
Cho vay với lãi suất −u đãi là hình thức giúp đỡ tài chính trong hoàn cảnh quản lý chất thải thiếu nguồn vốn để đầu t− trang thiết bị và công nghệ cho quản lý chất thải. Hình thức này th−ờng diễn ra với các n−ớc đang phát triển trong quá trình đô thị hóa nhanh, áp lực chất thải quá lớn không đủ nguồn lực
để tổ chức thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải.
Hình thức cho vay có thể là dài hạn hay ngắn hạn, thông th−ờng là cho vay dài hạn với lãi suất −u đãi hoặc bằng không nh−ng phải bảo đảm hoàn vốn.
Những tổ chức cho vay này th−ờng là các tổ chức tài chính lớn nh− Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB). Tổ chức hợp tác quốc tế của các n−ớc phát triển nh− JIC - Nhật Bản, SIDA - Thụy Điển, CIDA - Canada, DANIDA - Đan Mạnh, EU - Cộng đồng Châu Âu... Thông thường các nguồn này được tăng lên trong trường hợp quản lý chất thải đảm bảo hiệu quả. Ngược lại nếu quản lý không hiệu quả sẽ bị cắt giảm hoặc hủy bỏ.
7.1.3. Cho thuê tμi chính đối với Quản lý chất thải
Cho thuê tài chính đối với quản lý chất thải là hình thức một tổ chức tài chính cho thuê tài chính thông qua cung cấp trang thiết bị phục vụ cho quản lý chất thải trên cơ sở thỏa thuận của hai bên, bên vay và bên cho vay. Hình thức
này hiện nay mặc dù ch−a thật phổ biến trong quản lý chất thải nh−ng xét về nguyên tắc tài chính hoàn toàn có thể thực hiện đ−ợc và đảm bảo tính hiệu quả
cũng nh− tính ràng buộc của các đối tác liên quan.
7.1.4. Đầu t− tμi chính cho quản lý chất thải
Đầu t− tài chính cho quản lý chất thải là việc tập trung nguồn vốn cho quản lý chất thải đạt hiệu quả kinh tế cao nhất trên cơ sở tính toán và phân tích tài chính của dự án đầu t− quản lý chất thải.
Những đối tượng tham gia đầu tư tài chính cho quản lý chất thải thường là các tổ chức hay cá nhân có nguồn lực về tài chính và họ tính toán đ−ợc lợi ích thu về của việc đầu t− đó. Ví dụ ở Việt Nam, các chủ doanh nghiệp thu gom các chất thải này, vì mang lại lợi ích kinh tế cho họ. Hay công ty trách nhiệm hữu hạn Huy Hoàng ở Lạng Sơn sẵn sàng đầu t− tài chính khá lớn cho thu gom, vận chuyển và chôn lấp chất thải ở thành phố Lạng Sơn và một số thị trấn trong tỉnh, vì chủ doanh nghiệp tính đ−ợc lợi ích mang lại cho doanh nghiệp này trên cơ sở chế trao quyền cho doanh nghiệp của UBND tỉnh.
Trong quản lý chất thải, đầu t− tài chính cho quản lý chất thải trong một số tr−ờng hợp mang tính chất đầu t− công cộng, chẳng hạn nh− đầu t− cho chôn lấp hay xử lý chất thải. Với những loại đầu tư đó thường đại diện là chính quyền
địa phương hay Nhà nước thực hiện thông qua đầu tư trực tiếp hay liên doanh, liên kết. Như vậy chính quyền địa phương hay Nhà nước cũng phải tính toán
đ−ợc thời gian hoàn vốn và hiệu quả của việc đầu t−. Hiệu quả ở đây th−ờng
đ−ợc tính tới cả hiệu quả kinh tế, xã hội và môi tr−ờng.
7.1.5. Cơ chế tμi chính cho quản lý chất thải
Cơ chế tài chính cho quản lý chất thải là việc sử dụng các biện pháp và công cụ tài chính, nhằm khuyến khích các đối t−ợng liên quan đến quản lý chất thải tự nguyện và tích cực tham gia vào quản lý chất thải đạt hiệu quả cao nhất.
Liên quan đến biện pháp tài chính nh− giao quyền tự chủ cho tổ chức hay cá nhân trong việc hạc toán tài chính của việc quản lý chất thải, giảm bớt các khâu trung gian. Biện pháp tài chính nhằm phát huy và khuyến khích t− nhân tham gia vào quản lý chất thải, tạo ra thị tr−ờng cạnh tranh trong quản lý chất thải. Hạn chế độc quyền và tiến tới loại bỏ trợ cấp Nhà nước cho quản lý chất thải.
Sử dụng các công cụ tài chính trong quản lý chất thải nh− phí, thuế để
điều chỉnh các hành vi và định hướng các hoạt động trong quản lý chất thải. Có chế tài th−ởng phạt phù hợp với thực tiễn khách quan của vận hành trong nền kinh tế và nhận thức của xã hội về quản lý chất thải. Phát huy tối đa nguyên tắc ng−ời gây ô nhiễm phải trả tiền và ng−ời h−ởng lợi chất l−ợng môi tr−ờng tốt cũng phải trả tiền.